Xu hướng để râu của đàn ông trong vài năm trở lại đây khiến chị em mê mẩn bởi độ nam tính. Tuy nhiên ít ai biết rằng có nhiều loài động vật trông cũng “phong … xem thêm…trần“, thú vị hơn rất nhiều nếu sở hữu bộ râu. Nhân dịp đặc biệt của TopChuan.com chúng tôi xin giới thiệu với các bạn bài viết được chọn lọc chỉ về các loài động vật có râu “đẹp ngang ngửa” cánh đàn ông.
Mòng biển Inca
Mòng biển Inca là loài chim đến từ Nam Mỹ. Chim biển Inca Tern có bộ ria mép màu trắng rất ngộ nghĩnh này sinh sống chủ yếu tại các vùng biển ở Peru và Chile. Loài chim này có lông màu xám, chân và mỏ màu vàng cam. Con chim biển này thích đi chơi xung quanh dòng Humboldt mát mẻ, nơi cung cấp cho nó nhiều cá cơm để ăn.
Mòng biển Inca là một loài chim trong họ Laridae. Loài chim biển này chủ yếu sinh sống tại các vùng biển ở Peru và Chile. Chúng có lông màu xám, chân và mỏ màu vàng cam, đặc biệt có hai hàng ria trắng nối dài từ phần mỏ. Hiện nay, chỉ còn khoảng 150.000 cá thể do môi trường sống bị đe dọa nghiêm trọng. Mòng biển Inca sinh sản trên những vách đá. Chúng xây tổ trong các hang rỗng hoặc đôi khi dùng tổ cũ của chim cánh cụt Humboldt, và đẻ một hoặc hai quả trứng. Những quả trứng được ấp trong khoảng 4 tuần, và chim non rời tổ sau 7 tuần.
Loài chim biển này chủ yếu sinh sống tại các vùng biển ở Peru và Chile. Chúng có lông màu xám, chân và mỏ màu vàng cam, đặc biệt có hai hàng ria trắng nối dài từ phần mỏ. Hiện nay, chỉ còn khoảng 150.000 cá thể do môi trường sống bị đe dọa nghiêm trọng.
Mòng biển Inca sinh sản trên những vách đá. Chúng xây tổ trong các hang rỗng hoặc đôi khi dùng tổ cũ của chim cánh cụt Humboldt, và đẻ một hoặc hai quả trứng. Những quả trứng được ấp trong khoảng 4 tuần, và chim non rời tổ sau 7 tuần.


Hải mã
Hải mã (hay còn được gọi là moóc, hải tượng, voi biển) người anh em tới từ Bắc Cực có vẻ như không được mẹ thiên nhiên phú cho vẻ đẹp như người anh em trên cạn. Chúng sở hữu bộ râu thưa trên mặt. Những râu này liên quan mật thiết đến mạch máu và dây thần kinh nên chúng rất nhạy cảm. Hải mã trưởng thành rất dễ dàng nhận biết bởi hai chiếc ngà đặc trưng cùng râu của chúng.
Con đực trưởng thành có thể nặng hơn 1.700 kg. Hải mã sống chủ yếu ở vùng nước nông trên thềm lục địa, trên các tảng băng và tìm kiếm thức ăn ở các khu vực biển nông. Hải mã có tuổi thọ khá dài, sống theo bầy đàn và là loài đặc trưng của vùng biển Bắc Cực. Hải mã đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của một số dân tộc vùng vòng Bắc cực, chúng cung cấp thịt, mỡ, da, ngà, và xương cho cuộc sống của họ. Trong suốt thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, Hải mã đã bị săn bắt nghiêm trọng để lấy ngà và thịt khiến số lượng moóc giảm nhanh chóng trên toàn khu vực Bắc Cực. Hiện nay, số lượng của chúng đang tăng dần ở mức chậm nhưng môi trường sống bị đe dọa khiến chúng sống phân tán.
Hải mã sống ở vùng biển nước nông nhưng kiếm ăn ở những vùng nước sâu hơn, khu vực biển có sự đa dạng về nguồn thức ăn hơn. Hải mã là loài vật ăn tạp với khoảng 60 loại khác nhau bao gồm tôm, cua, giun ống, san hô mềm, hải sâm, động vật thân mềm và nhiều loại khác. Đặc biệt, thức ăn ưa thích của chúng là các loài động vật hai mảnh sinh sống dọc đáy biển, nhất là trai. Nó dùng lưỡi, tạo môi trường chân không trong khoang miệng có cấu trúc mái vòm và nhanh chóng hút được con vật ra khỏi lớp vỏ của chúng một cách hiệu quả.


Linh miêu Iberia
Linh miêu Iberia không chỉ sở hữu một bộ lông hiếm lạ mà còn nổi tiếng với chòm râu trắng bạc giúp nó toát ra vẻ uy nghiêm, thâm trầm.
Linh miêu Iberia (danh pháp hai phần: Lynx pardinus) là một loài mèo thuộc Linh miêu (Lynx) trong họ Mèo. Linh miêu Iberia là loài nguy cấp. Loài này được mô tả bởi Coenraad Jacob Temminck|Temminck vào năm 1827. Loài này là loài bản địa bán đảo Iberia ở Nam Âu. Nó là một trong các loài mèo bị đe dọa nhiều nhất trên thế giới. Theo một nhóm bảo tồn SOS Lynx, nếu loài này biến mất, nó sẽ là một trong vài vụ tuyệt chủng của feline kể từ Smilodon 10.000 năm về trước. Loài này từng được phân loại là một phân loài của Linh miêu Á-Âu (Lynx lynx), nhưng ngày nay được xem là một loài riêng biệt. Cả hai loài đều đã hiện diện ở trung bộ châu Âu trong thời kỳ Pleistocene, có lựa chọn môi trường sống khác nhau. Linh miêu Iberia được tin là đã tiến hóa từ Lynx issiodorensis.
Linh miêu là Iberia loài mèo săn mồi cỡ trung bình, đôi khi còn được gọi là “linh miêu” . Những con mèo này có đặc điểm là có những chùm lông nhỏ nhô ra từ đầu tai của chúng. Các loài khác nhau của loài mèo này trải dài từ Bắc Mỹ đến Âu-Á, wowhay.com chia sẻ cùng bạn. Những con mèo nổi bật này là những kẻ săn mồi điêu luyện. Chúng thích nghi tốt với việc sống trong một số môi trường sống khác nhau, và có nhiều đặc điểm cụ thể để hỗ trợ sự tồn tại của chúng.
Bộ tứ – Những con mèo này có chi phân loại riêng của chúng. Có bốn loài mèo khác nhau trong chi “linh miêu”, linh miêu Canada, linh miêu, linh miêu Á-Âu và linh miêu Iberia.


Cá da trơn
Cá da trơn có những chiếc râu trông giống như râu mèo. Cá da trơn có thể có tới 4 cặp râu: mũi, hàm trên (ở hai bên miệng), và 2 cặp râu cằm, mặc dù ở các loài khác nhau thì các cặp râu có thể không có. Do râu là quan trọng hơn trong việc tìm kiếm thức ăn nên mắt của chúng nói chung là nhỏ. Giống như ở các nhóm cá khác trong siêu bộ Ostariophysi, chúng có cơ quan gọi là cơ quan Weber. Chúng có cơ quan Weber phát triển khá tốt và bong bóng suy giảm để cho phép chúng cải thiện thính giác cũng như để tạo ra âm thanh.
Phần lớn cá da trơn có các đặc điểm thích nghi với cuộc sống ở tầng đáy. Nói chung, chúng có sức nổi âm, nghĩa là chúng thường sống chìm hơn là sống nổi do bong bóng bị suy giảm, đầu nhiều xương và nặng. Cá da trơn có hình dạng phân thân không đồng nhất, nhưng phần lớn có thân hình trụ với bụng hơi phẳng để thích hợp với việc kiếm ăn ở tầng đáy.
Đầu bẹp cho phép chúng đào bới trong tầng đất bùn, cũng như có lẽ phục vụ trong vai trò tạo sức nâng giống như ở tàu cánh ngầm. Phần lớn có phần miệng có thể mở to và không có răng cửa; cá da trơn nói chung ăn uống theo kiểu bú mút hay nuốt hơn là theo kiểu cắn xé con mồi. Tuy nhiên, một vài họ, chẳng hạn Loricariidae và Astroblepidae, có miệng kiểu giác mút hướng xuống dưới, cho phép chúng bám chắc vào các vật thể trong dòng nước chảy nhanh. Cá da trơn cũng có hàm trên bị suy giảm để hỗ trợ râu; điều này có nghĩa là chúng không thể thò miệng ra như ở các loài cá khác, chẳng hạn như ở cá chép.
Cá da trơn không có vảy; thân của chúng thường là trần trụi. Ở một số loài, lớp da phủ chất nhầy được sử dụng trong hô hấp đường da, trong đó cá da trơn hít thở thông qua da của nó. Ở một số loài cá da trơn khác, da che phủ các tấm giáp bảo vệ giống như mai; một dạng bảo vệ cơ thể đã tiến hóa trong phạm vi bộ này.


Nhện nhảy
Đặc điểm chung của các loài nhện nhảy là cơ thể có màu sắc sặc sỡ, 4 cặp mắt lớn và khả năng nhảy để bắt mồi. Bên cạnh đó, nhiều loài nhện nhảy cũng có đặc điểm dễ nhận thấy khác là phần lông che phủ mặt giống như một bộ ria rậm rạp. Nhện nhảy Habronattus mustaciata có bộ ria dựng đứng. Nhện Habronattus còn có bộ ria mỏng màu trắng.
Trong số các động vật chân đốt, nhện nhảy hay còn gọi salticids được biết đến với khả năng thị lực vượt trội. Chúng có 8 mắt, 4 trong số đó được đặt ở nơi cao nhất. 2 Mắt giữa lớn có góc nhìn thẳng và độ phân giải cao, ngược lại các mắt nhỏ có góc nhìn xung quanh và độ nét thấp. Nhện nhảy thuộc họ Salticidae. Với hơn 4.000 loài đang sinh sống trên toàn cầu, phân bố nhiều nhất ở các vùng nhiệt đới. Tuy nhiên, một số loài thậm chí có thể phát triển mạnh trên dãy Himalaya lạnh giá. Hơn 300 loài sống ở Bắc Mỹ. Loài nhện này thường có màu sắc đậm, con đực nhìn sáng hơn con cái.
Nhện nhảy được biết đến với khả năng bật nhảy và phản xạ nhanh chóng của chúng. Những con nhện này có thể nhảy cao gấp 25 lần kích thước của chúng, như vậy đồng nghĩa với việc chúng là những kẻ săn mồi đáng sợ. Nhện nhảy đặc biệt phong phú trong những đồng cỏ và môi trường thảo nguyên. Nơi chúng săn bắt sâu bướm, sâu cắt lá, sâu kéo màng, giun đất, bọ chét, ruồi và muỗi. Nhện nhảy cũng thường vào nhà do con người vô tính mang chúng vào. Chúng cùng thường xuất hiện ngoài sân, bên trong và xung quanh chuồng trại và nhà ở.
Nhện nhảy có kiểu săn mồi đa dạng. Một số loài sử dụng thuật ngụy trang để trộn lẫn vào môi trường xung quanh. Số khác thì chủ động trèo lên cao để quan sát con mồi. Nếu phát hiện nguy hiểm, chúng sẽ nhanh chóng tẩu thoát bằng khả năng bật nhảy hoăc ngụy trang.


Có thể bạn thích:














