Nhắc tới cáo, nhiều người nghĩ ngay tới con vật gian trá, độc ác trong các câu truyện cổ. Đây có lẽ cũng là lý do khiến rất ít người có thiện cảm với con vật … xem thêm…này. Trong thực tế, cáo là một loài động vật có ngoại hình dễ thương và lối sống thú vị. Cùng TopChuan.com tìm hiểu những sự thật thú vị về loài cáo nhé!
Dusicyon: Cáo quần đảo Falkland
Alopex: Cáo Bắc cực, mặc dù phân loại động vật có vú cuối cùng cũng như chứng cứ di truyền đặt nó trong chi Vulpes, chứ không phải chi riêng rẽ của chính nó là Alopex.
Cerdocyon: Cáo ăn cua
Cáo săn mồi và kiếm thức ăn như thế nào?
Hầu hết cáo là động vật sống về đêm và thực hiện phần lớn công việc săn bắt và kiếm ăn vào ban đêm. Điều đó nói rằng, không có gì lạ khi bạn nhìn thấy một con cáo ra ngoài vào lúc hoàng hôn hoặc bình minh, hoặc thậm chí vào ban ngày. Đúng như bản chất tự nhiên, hầu hết cáo săn bằng cách sử dụng tính năng tàng hình. Chúng thích rình bắt con mồi và không để ý đến chúng hơn là tiêu diệt thức ăn của chúng.
Tuy nhiên, cáo có thể chạy nhanh và có thể bắt được con mồi đang chạy trốn nếu được yêu cầu. Ví dụ, cáo đỏ có thể chạy tới 30 dặm một giờ, trong khi cáo xám có thể chạy 40 dặm một giờ. Cáo sẽ sử dụng kỹ thuật vồ để ghim con mồi, sau đó dùng hàm răng sắc nhọn tiêu diệt mục tiêu. Thông thường, chúng sẽ bẻ cổ hoặc lưng của con mồi, hoặc chọc thủng cổ họng của chúng để tung ra đòn kết liễu. Nếu chúng không thể hoàn thành bữa ăn trong một lần ăn, cáo có thể tích trữ thức ăn thừa ở gần đó và quay lại lấy sau.
Cáo thích nghi với các giác quan hòa hợp cao để giúp chúng săn mồi vào ban đêm. Thính giác của chúng rất nhạy bén, chúng có thể nghe thấy tiếng chuột kêu cách xa tới 100 feet. Chúng có thể cử động tai một cách độc lập, điều này cho phép chúng xác định chính xác nơi phát ra âm thanh.
Cáo cũng sở hữu khứu giác cực tốt. Điều này cho phép họ phát hiện những động vật làm tổ bên dưới mặt đất. Chúng đào thành thạo, cáo sẽ nhanh chóng chui xuống đất, băng, hoặc xung quanh đá để tìm côn trùng và động vật nhỏ. Ngoài ra, cáo còn sở hữu tầm nhìn tuyệt vời được điều chỉnh để giúp chúng săn mồi vào ban đêm. Chúng sở hữu tầm nhìn 260 độ, mặc dù tầm nhìn của chúng chủ yếu dựa vào việc chúng phát hiện chuyển động. Tầm nhìn của chúng có nhiều điểm chung với mèo, và giống như chó, chúng không thể nhìn thấy màu xanh lá cây hoặc màu đỏ.
Quan hệ với con người
Cáo tấn công người là không phổ biến nhưng đã được ghi nhận. Tháng 11 năm 2008, một sự cố xảy ra tại Arizona, Hoa Kỳ đã được thông báo, trong đó một người chạy bộ đã bị một con cáo điên tấn công và cắn.
Săn cáo: Săn cáo là một thú tiêu khiển và môn thể thao gây tranh cãi, có nguồn gốc từ Vương quốc Anh trong thế kỷ XVI. Việc đi săn cáo bằng chó hiện nay bị cấm tại Vương quốc Anh, mặc dù việc đi săn không dùng chó vẫn được cho phép. Thú tiêu khiển này cũng phổ biến tại một số quốc gia khác, như Úc, Canada, Pháp, Ireland, Italia, Nga và Hoa Kỳ.
Thuần hóa: Cáo bạc Nga hay cáo bạc thuần hóa là kết quả của trên 40 năm thực nghiệm tại Liên Xô và Nga để thuần hóa dạng màu trắng bạc của cáo đỏ. Đáng chú ý là những con cáo mới này không chỉ trở thành được thuần hóa nhiều hơn mà chúng còn giống như chó nhiều hơn: chúng đánh mất mùi xạ đặc trưng của chúng “mùi cáo”, trở nên thân thiện với con người hơn, tai rủ xuống (giống như chó) hơn, vẫy đuôi khi chúng vui thích và bắt đầu sủa giống như chó nhà. Dự án nhân giống được nhà khoa học Liên Xô Dmitri Belyaev (1917-1985) khởi đầu.
Chim
Bệnh tật: Nhiều loài cáo dễ bị nhiễm ký sinh trùng, một loại đặc biệt được gọi là bệnh mange. Bọ xít hút máu có thể gây rụng tóc và ngứa. Không có lông, chúng không có gì để giữ ấm cho chúng trong những tháng mùa đông lạnh giá.
Sói thì ngược lại hoàn toàn, nó chính là phân loài lớn nhất trong họ nhà Chó. Trọng lượng và kích cỡ sói xám có thể thay đổi lớn trên toàn thế giới, có xu hướng tăng tương ứng với vĩ độ với những con sói lớn của Alaska và Canada đôi khi nặng gấp 3-6 lần so với người anh em của chúng ở Trung Đông và Nam Á.
Hạt giống
Tuổi thọ cáo: Cáo sống được bao lâu?
Tuổi thọ trung bình của cáo là 3-4 năm trong tự nhiên. Tuy nhiên, trong điều kiện nuôi nhốt, cáo đã được biết là sống lâu hơn nhiều. Tuổi thọ trung bình của chúng trong điều kiện nuôi nhốt là 10 đến 14 năm.
Hãy cùng nhìn lại tuổi thọ của một số loài cáo đáng nhớ:
- Cáo Bắc Cực : Theo Veterinary Parasitology, tuổi thọ của cáo Bắc Cực là 4 năm trong tự nhiên và lên đến 14 năm trong điều kiện nuôi nhốt.
- Cáo đỏ: Cáo đỏ có thể sống đến 2-6 tuổi trong môi trường hoang dã và 10-14 tuổi trong điều kiện nuôi nhốt.
- Cáo Fennec: Cáo Fennec có thể sống đến 10 năm trong môi trường hoang dã và 14 năm trong điều kiện nuôi nhốt. Rõ ràng là cáo trong tự nhiên có tuổi thọ thấp hơn nhiều.
Các yếu tố chung ảnh hưởng đến tuổi thọ của cáo:
- Động vật ăn thịt: Vì cáo khá nhỏ nên chúng thường bị các động vật lớn hơn nhiều làm con mồi. Cáo phải đề phòng sư tử núi, chó sói, sói đồng cỏ, và thậm chí cả cú. Con người cũng là một loài săn mồi chính vì cáo thường bị săn bắt để lấy lông và môi trường sống tự nhiên của chúng bị phá hủy.
- Bệnh tật: Nhiều loài cáo dễ bị nhiễm ký sinh trùng, một loại đặc biệt được gọi là bệnh mange. Bọ xít hút máu có thể gây rụng tóc và ngứa. Không có lông, chúng không có gì để giữ ấm cho chúng trong những tháng mùa đông lạnh giá.
- Môi trường sống bị huỷ hoại: Với việc con người chiếm quá nhiều đất tự nhiên, cáo đã bắt đầu cư trú ở nhiều khu vực thành thị. Điều này khiến họ dễ bị tử vong không đáng có như bị ô tô đâm.
Cáo Fennec: Cáo Fennec có thể sống đến 10 năm trong môi trường hoang dã và 14 năm trong điều kiện nuôi nhốt. Rõ ràng là cáo trong tự nhiên có tuổi thọ thấp hơn nhiều.
Tình trạng bảo tồn
Cáo dễ dàng được tìm thấy trong các đô thị và các khu vực có cày cấy gieo trồng (phụ thuộc vào loài) và dường như thích nghi khá tốt với sự hiện diện của con người.
Cáo đỏ được du nhập vào Úc, nơi thiếu vắng những kẻ ăn thịt tương tự và cáo du nhập này đã săn các con mồi là động vật hoang dã bản địa, với một số loài bị dẫn tới điểm tuyệt chủng. Sự du nhập tương tự đã diễn ra trong thế kỷ 17 tới 18 tại vùng ôn đới Bắc Mỹ, trong đó cáo đỏ châu Âu (Vulpes vulpes) được người ta đưa tới thả tại các thuộc địa để phát triển thú vui săn cáo, nơi họ đã tàn sát quần thể cáo đỏ Mỹ thông qua việc săn bắn tích cực hơn cũng như thông qua sinh sản mạnh hơn của quần thể cáo đỏ châu Âu. Lai giống với cáo đỏ Mỹ, các đặc điểm của cáo đỏ châu Âu cuối cùng đã lan tỏa khắp bộ gen, làm cho cáo đỏ châu Âu và Mỹ hiện nay là gần như đồng nhất.
Một số loài cáo khác không sinh sản mạnh như cáo đỏ, và là loài nguy cấp trong môi trường bản địa của chúng. Đáng chú ý trong số này là cáo ăn cua (Cerdocyon thous) và cáo tai dơi châu Phi (Otocyon megalotis). Các loài cáo khác, như cáo Fennec (Vulpes zerda), là không nguy cấp.
Cáo từng được dùng thành công trong việc kiểm soát dịch hại tại các trang trại trồng hoa quả, trong đó chúng để lại quả còn nguyên vẹn.
Các sử gia tin rằng cáo từng được đưa tới các môi trường không bản địa từ rất lâu trước kỷ nguyên xâm chiếm thuộc địa. Ví dụ đầu tiên về việc du nhập cáo như vậy bởi con người vào môi trường sống mới cho chúng dường như là tại Cộng hòa Síp thời kỳ đồ đá mới. Các hình khắc trên đá thể hiện những con cáo được tìm thấy trong các khu định cư sớm tại Göbekli Tepe ở miền đông Thổ Nhĩ Kỳ.
Có thể bạn thích: