Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy 5 châu của đất nước ta, chiến thắng đó thấm đẫm máu đào của các anh. Phía sau ánh hào quang của chiến thắng là hàng nghìn người con đã nằm xuống nơi đất mẹ để giành lấy sự tự do cho đất nước, cho dân tộc, cho thế hệ sau. Chúng tôi thuộc thế hệ sau, được sống trong hòa bình, không bom đạn là nhờ sự hy sinh của các anh. Những người anh hùng dân tộc có người biết mặt biết tên, nhưng cũng có nhiều người đến cả cái tên cũng không biết… đã có những hình ảnh trở thành bất tử đi vào tâm trí, trái tim người Việt như một huyền thoại.
Anh hùng Hoàng Văn Nô dũng sĩ đâm lê
Sinh năm 1932 ở xã Ngọc Khê, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng; nhập ngũ năm 1952.
Ngày 31/01/1954, đại đội 925 nhận nhiệm vụ đánh chặn cuộc hành binh của Tiểu đoàn dù số I (IBEP) ở khu vực Đồi xanh cao điểm 781 phía Đông Điện Biên Phủ.
Trước khi mở màn chiến dịch, một đại đội địch tiến lên định vượt Đồi xanh.Tiểu đội của Đinh Văn Niết nổ súng đánh chặn. Địch tạm lui, rồi sau đó chúng dùng pháo binh bắn dồn dập vào quả đồi rồi cử một cánh quân khác men theo sườn đồi với mục đích tập kích vào tiểu đội của Niết. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt kéo dài cả ngày trời. Bộ đội ta theo sự chỉ huy của tiểu đội trưởng, chia ra làm 2 tổ, một tổ kiềm chế địch, một tổ 3 người xông lên đánh địch. Ta địch bắn trả quyết liệt, Tiểu đội trưởng Đinh Văn Niết và nhiều anh em khác bị trúng đạn ngã xuống, quá đau xót và căm giận, Hoàng Văn Nô giương lê lên, nhanh như tia chớp, anh xông tới đâm thẳng lưỡi lê vào ngực tên Lê Dương, rồi liên tiếp đâm chết tên thứ 2, tên thứ 3, tên thứ 4 bị anh đâm sâu lún đến tận nòng súng, phải đạp mạnh vào đầu tên địch anh mới rút lưỡi lê ra được. Đang tiếp tục xông lên diệt tên thứ 5 thì anh bị địch xả đạn vào người. Hoàng Văn Nô hy sinh trong tư thế lẫm liệt của người chiến sĩ dũng mãnh, anh hùng.
Anh hùng Bế Văn Đàn lấy vai làm giá súng
Bế Văn Đàn sinh năm 1931 ở xã Triệu Ẩu, huyện Phục Hòa, Tỉnh Cao bằng. Năm 1948 giữa lúc cuộc chiến tranh ở Đông Dương đang diễn ra quyết liệt anh xung phong vào bộ đội. Đảng Cộng Sản quyết định mở chiến dịch Đông Xuân 1953-1954. Anh được phân công làm liên lạc tiểu đoàn.
Một đại đội của tiểu đoàn được giao nhiệm vụ bao vây giữ chân địch ở Mường Bồn. Pháp thấy lực lượng của quân Việt Minh ít, đã tập trung hai đại đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích phá vây, nhưng cả hai lần đều thất bại. Cuộc chiến càng lúc càng căng thẳng, khốc liệt, quân Pháp liều chết lao lên, quân ta tử thủ ngăn chặn bước tiến của chúng.
Lúc đó đại đội được lệnh bằng bất cứ mọi giá phải kìm chân địch lại ở Mường Pồn, để các đơn vị khác triển khai lực lượng, thực hiện các chủ trương của chiến dịch. Mặc dù vừa mới đi công tác về nhưng khi chỉ huy thông báo Bế Văn Đàn lập tức xung phong đi làm nhiệm vụ, anh băng qua mưa bom, bão đạn để truyền lệnh cho các đồng đội kịp thời chính xác. Trận chiến diễn ra khốc liệt hơn bao giờ hết, anh liền ở lại đại đội kề vai sát cánh chống địch cùng các anh em.
Cuộc phản kích của quân Pháp nổ ra lần thứ 3. Đại đội quân ta chỉ còn vỏn vẹn 17 chiến sĩ, bản thân anh cũng đang bị thương nhưng vẫn tiếp tục cùng đồng đội chiến đấu tới cùng. Có một khẩu trung liên của đại đội không bắn được vị xa thủ hi sinh, khẩu còn lại của Chu Văn Pù cũng chẳng thể bắn vì không có chỗ đặt súng, tình hình cấp bách, anh liền chạy lại, không chút ngần ngại cầm 2 chân khẩu súng đặt lên vai mình và hô đồng đội bắn, thấy Pù còn do dự chưa bắn, anh nói “kẻ thù trước mắt, đồng chí có thương tôi thì bắn chết chúng nó đi” trong lúc lấy thân làm giá súng anh còn bị thêm 2 vết thương nữa và hy sinh, nhưng 2 tay anh vẫn ghì chặt chân súng trên đôi vai của mình.
Anh hùng Trần Can hiên ngang dẫn đầu tiểu đội cắm cờ lên lô cốt Him Lam
Trần Can sinh năm 1931 ở xã Sơn Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
Mở đầu cho chiến dịch Điện biên Phủ là ván đánh đồi Him Lam, anh được giao nhiệm vụ cắm lá cờ tổ quốc do Hồ Chủ Tịch gia cho quân ta, cắm trên đồn địch. Tiếng súng khai mở chiến dịch bắn ra, mặc kệ cho dù hỏa lực quân pháp bắn ra hung ác dội như thế nào, anh vẫn dẫn đầu tiểu đội vượt qua lô cốt tiền duyên, xông thẳng vào sở chỉ huy, anh như một mũi tên lao vun vút bắn thẳng vào tim địch. Rồi nhảy lên lô cốt cắm lá cờ quyết chiến quyết thắng, anh chỉ huy tiểu đội tiêu diệt những tên lính Pháp còn lại trong hầm, bắt sống 25 tên, tịch thu nhiều loại vũ khí.
Trong ván điểm cao 507, Trần Can dẫn đầu đồng đội áp đảo quân Pháp chiếm trọn mỏm cờ, địch đánh trả hung ác dội hòng chiếm lại. Ta và địch giành giật nhau từng tấc đất quyết không để mất. Cả 4 đợt phản kích của địch đều bị anh cùng đồng đội chống trả quyết liệt, giữ vững thế trận. Địch mở đợt tấn công thứ 5, chúng ném lựu đạn tới tấp trước khi lao lên, anh cầm lựu đạn ném trả lại và chỉ huy anh em nhảy lên nhảy lên hào đánh giáp lá cà, cán bộ đại đội bị thương vong, Trần Can cũng mang vết thương trên mình nhưng anh quyết tâm chỉ huy bộ đội chiến đấu suốt đêm. Sáng sớm hôm sau anh tập trung những người bị thương nhẹ lại, động viên anh em, chấn chỉnh quân ngũ, củng cố ván địa. Quân địch tấn công hung ác dội, mong chiếm lại cửa ngõ tiến vào mường thanh, Trần Can cùng các anh em đánh tan mọi đợi tiến công của địch, một lòng giữ vững ván địa, tạo lợi thế cho quân ta tiến vào trung tâm Mường Thanh. Vào sáng ngày kết thúc chiến dịch tức ngày 7/5/1954 anh đã hy sinh anh dũng.
Anh hùng Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai
Phan Đình Giót sinh năm 1922 ở xóm Tam Quang, thôn Vĩnh Yên, xã Cẩm Thủy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Mùa đông năm 1953 đơn vị anh được lệnh tham gia vào chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chiều ngày 13/3/1954 phát súng đầu tiên nổ ra tín hiệu tiêu diệt cứ điểm Him lam của pháp, cả ván địa rung chuyển, khói bụi mù mịt sau 1 loạt pháo của ta cũng như loạt đạn của địch bắn ra. Các chiến sĩ đại đội 58 tiên phong mở đường, đã liên tiếp đánh phá được tám quả bộc, đến quả thứ chín Phan Đình Giót bị thương ở đùi, nhưng bỏ mặc vết thương anh tiếp tục cùng đồng tiếp đánh tiếp những quả sau. Quân Pháp tập trung hỏa lực bắn về phía quân ta như mưa đồng chí, đồng đội người bị thương, người hi sinh.
Ánh mắt căm thù, lửa hận bốc cao anh dũng cảm lao lên đánh phá liên tiếp hai quả tiếp theo, mở toang chốt chặn giúp đồng đội tiến bước đánh sập lô cốt đầu cầu. Nhân lúc địch hoang mang, lo sợ, anh lao lên bám chắc ở lô cốt số 2, bắn kiềm chế để những đồng đội xông lên. Lúc này anh bị thương rất nặng, máu không ngừng chảy. Nhân lúc thế quân ta tiến công thì bị ùn lại bởi hỏa lực ở lô cốt số 3 của định bất bờ bắn rất rát về phía quân ta. Anh cố gắng nhích dần người lên lô cốt số 3 chỉ với một ý chí, quyết tâm bằng mọi giá phải vô hiệu hóa hoàn toàn được lô cốt này. Anh dồn hết chút sức còn lại nâng khẩu tiểu liên nã đạn vào lỗ châu mai và hô lớn “quyết hi sinh vì Đảng, vì dân” rồi lấy đà, dùng cả tấm thân người trần mắt thịt của anh bịt kín lỗ châu mai. Hỏa điểm lợi hại nhất của địch đã bị anh dập tắt, toàn bộ đơn vị lao lên như vũ bão tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam mở đầu chiến thắng đầu tiên trong chiến dịch.
Anh hùng Tô Vĩnh Diện dùng thân chèn pháo
Tô Vĩnh Diện sinh năm 1924, tại xã Nông Trường, huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa. Anh nhập ngũ vào tháng 7 năm 1949.
Tháng 5/1953 đơn vị pháo cao xạ được thành lập để chuẩn bị cho ván đánh lịch sử, anh được điều về làm tiểu đội trưởng của một đơn vị pháo cao xạ.
Đường kéo pháo hơn 1.000 km mới đến được nơi tập kết. Anh luôn hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm. Luôn luôn động viên, giúp đỡ đồng đội kéo pháo tới vị trí an ninh tránh bị địch phát hiện từ trên không. Trong suốt quá trình kéo pháo anh luôn là người chu đáo tự mình kiểm tra dây kéo, xem xét từng đoạn dốc, đoạn đường nguy hiểm, rồi phổ biến cho anh em những trường hợp bất ngờ xảy ra để có cách giải quyết tốt nhất.
Qua 5 đêm kéo pháo ra tới dốc chuối, con dốc này đường cong, hẹp gập ghềnh hiểm trở, vô cùng nguy hiểm. Anh cùng đồng chí Lê Văn Chi xung phong lái pháo, đến lưng chừng dốc đột nhiên dây tời bị đứt, pháo lao nhanh xuống con dốc anh vẫn bình tĩnh giữa chắc càng lái cho pháo thẳng đường, 1 trong những 4 dây kéo bị đứt, lúc này pháo càng lao xuống dốc nhanh hơn, đồng chí Chi bị hất văng ra, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn đó anh hô hào anh em “thà hy sinh quyết bảo vệ pháo”, không một chút ngần ngại, do dự nào anh buông tay lái, xông thẳng lên trước, dùng thân mình chèn bánh pháo, nhờ có anh mà các anh em trong đội ghìm giữ pháo thành công. Anh hy sinh vô cùng anh dũng là nguồn sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn, giúp toàn đội tiến lên phía trước hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị cho ván chiến.
Có thể bạn thích: