Bác Hồ – Người đã dành trọn cuộc đời, tâm huyết của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Người đã mãi đi xa, nhưng hình ảnh về một lãnh tụ vĩ đại, đáng kính, được nhân loại biết đến và kính nể thì mãi vĩnh hằng trong trái tim mỗi thế hệ người Việt Nam chúng ta và bạn bè quốc tế. Bác Hồ – một con người giản dị, nhưng toát lên linh hồn của cả một dân tộc. Có thể nói: Trăm người viết về Hồ Chí Minh thì trăm người đều ca ngợi tính giản dị của Bác; ngàn người biết về Bác đều nói Bác giản dị. Giản dị là tính tự nhiên của Bác Hồ. Người giản dị thì có nhiều, nhưng lại có ít người đã đạt thành công to lớn trong sự nghiệp xã hội mà tính giản dị tự nhiên cũng không thay đổi. Và trong bài viết ngày hôm nay, các bạn hãy cùng TopChuan.com ôn lại những câu chuyện kể về đức tính giản dị của chủ tịch Hồ Chí Minh cùng bài học ý nghĩa nhất.
Bài học về giản dị và tiết kiệm
Bà Nguyễn Thị Liên, nguyên cán bộ Văn phòng Phủ Chủ tịch, kể lại rằng: Khi làm việc ở văn phòng Bác, đôi khi bà còn đảm nhận việc khâu, vá quần áo, chăn, màn, áo gối cho Bác. Công việc này giúp bà có điều kiện được gần Bác và học tập được rất nhiều.
Áo Bác rách, có khi vá đi vá lại, Bác mới cho thay. Chiếc áo gối màu xanh hoà bình của Bác, được ông Cần (người phục vụ Bác) đưa bà vá đi vá lại. Cầm chiếc áo gối của Bác, bà rưng rưng nước mắt, bà nói với ông Cần thay áo gối khác cho Bác dùng nhưng Bác chưa đồng ý. Người vẫn dùng chiếc áo gối vá.
Những năm tháng giúp việc ở văn phòng Bác bà đã có những kỷ niệm không bao giờ quên.
Bà còn kể rằng:
Ở Việt Bắc, có 1 trong các buổi Bác đi công tác về muộn, về qua văn phòng, Bác nghỉ lại một lát vì mệt. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng, bảo vệ của Bác nói với bà:
– Bác mệt không ăn được cơm. Cô nấu cho Bác bát cháo.
Bác đang nằm nghỉ nghe thấy thế liền bảo bà:
– Cô nấu cháo cho Bác bằng cơm nguội ấy, vừa chóng chín, vừa tiết kiệm được gạo, khỏi bỏ phí cơm thừa.
Câu chuyện bà kể khiến chúng tôi xúc động và thương Bác quá chừng. Bác thật giản dị và tiết kiệm, chắt chiu như người cha lo cho một gia đình lớn, như cảnh nhà đông con mà còn túng thiếu. Chiếc áo gối vá, bát cháo nấu bằng cơm nguội của vị Chủ tịch nước có tác động lớn đến suy nghĩ của mỗi con người nhất là hiện nay, Đảng và Nhà nước ta thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh”.
Bài học kinh nghiệm: Câu chuyện nhỏ trên thấy rằng chúng ta cần noi gương ở Bác đức tính giản dị và tiết kiệm. Tiết kiệm có thể giúp những người còn khó khăn hơn chúng ta, giúp cho những người thật sự cần giúp đỡ, như thế ta sẽ vui mà người nhận cũng sẽ cùng vui.
Sự giản dị của Bác Hồ
Qua bao năm tháng bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tích lũy được vốn kiến thức rất uyên thâm, nhưng khi đến với cán bộ, quần chúng nhân dân, Bác đã chuyển hóa những kiến thức đó thành những câu chuyện nhẹ nhàng, dễ hiểu, rất bình dị và gần gũi.
Đầu năm 1946, có cuộc họp cán bộ từ trung ương đến các địa phương, Bác đến thăm và nói chuyện. Khi giải thích mối quan hệ giữa chính sách của chính phủ với nhân dân thông qua đội ngũ cán bộ địa phương, Bác dùng một tấm bìa hình tam giác cân. Bác quay đáy tam giác lên trên, hướng đỉnh xuống phía dưới và nói: “Nhưng những chủ trương đó qua nhiều cấp, nhiều cán bộ yếu kém đến khi xuống đến dân thì bé lại chỉ còn chường này”.
Sau đó, Bác lật tấm bìa cho đáy xuống dưới, đỉnh lên trên và giải thích: “chiều đáy là nguyện vọng của nhân dân được phản ánh từ cơ sở, có rất nhiều, rất phong phú, nhưng qua nhiều cấp, cán bộ thì chỉ còn bé chừng này”. Bác chỉ tay vào đỉnh trên. Bác kết luận: “Vậy thì chúng ta phải làm gì để cho Chính phủ gần dân?”. Ai dự họp cũng đều thấm thía lời dạy của Bác và tự tìm ra câu trả lời đúng với công việc của mình.
Cũng trong năm 1946, Nhà nước cách mạng non trẻ phải đối phó vời thù trong giặc ngoài, gây cho ta biết bao khó khăn, thách thức. Nhiều người yêu cầu Bác cho quét sạch chúng đi, Bác cười, bảo: “Các chú giữ sức đánh tây?”, rồi Bác giải thích: “dòng nước đang chảy có cây gỗ chắn ngang, làm rác rưởi, lá cây đọng lại, các chú cứ vứt từng cái rác, từng cái lá thì không xuể mà phải tìm cách gạt cây gỗ đi thì dòng nước sẽ thông thoát”.
Trong thời kỳ kháng chiến nhiều cán bộ đi tuyên truyền về đường lối “trường kì kháng chiến” cho nhân dân. Khi dân chất vấn: “Kháng chiến khi nào thành công?” nhiều người không giải thích được bèn về hỏi Bác. Bác bảo: “Các chú biết rằng đồng bào ta phần lớn là nông dân thì phải lấy hình ảnh cụ thể, để đồng bào dễ hiểu. Các chú cứ lấy chữ nghĩa, nào là “phụ thuộc”, “khách quan”, “chủ quan” thì dân ít người hiểu, mà phải lấy những ví dụ cụ thể như muốn có khoai ăn, lúa ăn cũng phải chờ đến 3 tháng hoặc 6 tháng mới có thu hoạch, người phụ nữ có thai cũng phải hơn 9 tháng mới sinh con…”. Khi đến với nhân dân, với đồng chí, Bác ở bên họ như người thân, không có sự cách biệt giữa lãnh tụ với dân. Con người Bác, phong cách Bác, tư tưởng Bác toát lên một chân lý dễ hiểu, dân dã mà thanh cao, cụ thể dễ hiểu mà vẫn uyên thâm, tinh túy.
Qua câu chuyện trên ta rút ra được bài học kinh nghiệm sâu sắc cho bản thân: Bác Hồ vị lãnh tụ đáng kính của dân tộc ta dù là người học cao, hiểu rộng nhưng tư tưởng của Người luôn toát lên sự dân dã, lời nói của Người luôn là những chân lý dễ hiểu, cụ thể. Và những điều này không làm mất đi sự thanh cao, uyên thâm, tinh túy trong mỗi bài học của Người mà còn tôn lên vẻ đẹp của sự giản dị, hòa đồng trong cách sống và giao tiếp của Hồ Chủ Tịch với cấp dưới, với nhân dân.
Đôi dép Bác Hồ – Lối sống giản dị
Đôi dép của Bác “ra đời’’ vào năm 1947, được ‘’chế tạo’’ từ một chiếc lốp ô tô quân sự của thực dân Pháp bị bộ đội ta phục kích tại Việt Bắc. Đôi dép đo cắt không dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ rất vừa chân Bác.
Trên đường công tác, Bác nói vui với các cán bộ đi cùng:
– Đây là đôi hài vạn dặm trong truyện cổ tích ngày xưa… Đôi hài thần đất, đi đến đâu mà chẳng được.Gặp suối hoặc trời mưa trơn, bùn nước vào dép khó đi, Bác tụt dép xách tay. Đi thăm bà con nông dân, sải chân trên các cánh đồng đang cấy, đang vụ gặt, Bác lại xắn quần cao lội ruộng, tay xách hoặc nách kẹp đôi dép…Mười một năm rồi vẫn đôi dép ấy… Các chiến sĩ cảnh vệ cũng đã đôi ba lần “xin’’ Bác đổi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn đi được’’.Cho đến lần đi thăm Ấn Độ, khi Bác lên máy bay, ngồi trong buồng riêng thì mọi người trong tổ cảnh vệ lập mẹo dấu dép đi, để sẵn một đôi giầy mới…
Máy bay hạ cánh xuống Niu-đê-li, Bác tìm dép. Mọi người thưa:
– Có lẽ đã cất xuống khoang hàng của máy bay rồi… Thưa Bác….- Bác biết các chú cất dép của Bác đi chứ gì. Nước ta còn chưa được độc lập hoàn toàn, nhân dân ta còn khó khăn, Bác đi dép cao su nhưng bên trong lại có đôi tất mới thế là đủ lắm mà vẫn lịch sự – Bác ôn tồn nói.Vậy là các anh chiến sĩ phải trả lại dép để Bác đi vì dưới đất chủ nhà đang nóng lòng chờ đợi…Trong suốt thời gian Bác ở Ấn Độ, nhiều chính khách, nhà báo, nhà quay phim… rất quan tâm đến đôi dép của Bác. Họ cúi xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ nhiều góc độ, ghi ghi chép chép… làm tổ cảnh vệ lại phải một phen xem chừng và bảo vệ “đôi hài thần kỳ” ấy.
Năm 1960, Bác đến thăm một đối kháng vị Hải quân nhân dân Việt Nam. Vẫn đôi dép “thâm niên” ấy, Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi của đối kháng vị. Các chiến sĩ rồng rắn kéo theo, ai ai ai cũng muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác hơn. Bác vui cười nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại:
– Thôi, các cháu dẫm làm tụt quai dép của Bác rồi…
Nghe Bác nói, mọi người dừng lại cúi xuống yên lặng nhìn đôi dép rồi lại ầm ĩ lên:
– Thưa Bác, cháu, cháu sửa…- Thưa Bác, cháu, cháu sửa được ạ…
Thấy vậy, các chiến sĩ cảnh vệ trong đoàn chỉ đứng cười vì biết đôi dép của Bác đã phải đóng đinh sửa mấy lần rồi…Bác cười nói:
– Cũng phải để Bác đến chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa mà đứng đã chứ! Bác “lẹp xẹp” lết đôi dép đến gốc cây, một cánh tay vịn vào cây, một chân co lên tháo dép ra:
– Đây! Cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác…Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra, lúng túng. Anh bên cạnh liếc thấy, “vượt vây” chạy biến…
Bác phải giục:
– Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác còn đi chứ. Anh chiến sĩ, lúc nãy chạy đi đã trở lại với chiếc búa con, mấy cái đinh.- Cháu, để cháu sửa dép…Mọi người dãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong. Những chiến sĩ không được may mắn chữa dép phàn nàn.- Tại dép của Bác cũ quá. Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ..
Bác nhìn các chiến sĩ nói:
– Các cháu nói đúng… nhưng chỉ đúng có một phần… Đôi dép của Bác cũ nhưng nó chỉ mới tụt quai. Cháu đã chữa lại chắc chắn cho Bác thế này thì nó còn ‘’thọ’’ lắm! Mua đôi dép khác chẳng đáng là bao, nhưng khi chưa cần thiết cũng chưa nên… Ta phải tiết kiệm vì đất nước ta còn nghèo…
Bài học kinh nghiệm: Bài học rút ra từ câu chuyện: chúng ta học được nơi Bác Hồ lối sống giản dị, tiết kiệm. Dù ở địa vị càng cao nhưng Người càng giản dị, trong sạch, cả một đời không xa xỉ, hoang phí. Cuộc đời của Bác là tấm gương sáng ngời về đức: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nếp sống giản dị của Bác chính là tấm gương để con cháu chúng ta noi theo.
Sự giản dị rơi nước mắt của Bác Hồ
“Mỗi bữa ăn của Bác chỉ có một niêu cơm nhỏ, một đĩa tai hoặc mũi lợn luộc, một chút mắm chua. Khi ăn, bao giờ Bác cũng gắp tai, mũi lợn ra một chiếc đĩa nhỏ rồi lấy chén đậy lại.
Sau đó, Bác lấy dao khoanh tròn niêu cơm, lấy cháy ra ăn trước. Ăn xong, Bác bưng xuống bếp đưa cho tôi và anh em cán bộ phục vụ đĩa thịt tai lợn và bảo chỗ này Bác chưa gắp đến, các chú ăn đi.
Chúng tôi nhìn nhau rơi nước mắt, chỉ có vài miếng thịt mỏng mà Bác còn phần chúng tôi thì… ‘.
Những dịp theo Bác đi khảo sát tình hình thời sự ở Trung Quốc, chúng tôi mới thực sự nhận thấy tính hóm hỉnh của Người.
Va li quần áo của Bác chỉ có 2 chiếc quần đùi, 2 chiếc áo may ô và một bộ trang phục để tiếp khách thế nhưng Bác luôn dặn tôi phải hết sức cẩn thận cất giữ chiếc va li như báu vật, nếu đi đâu ra khỏi phòng phải cho vào tủ khóa lại.
Thấy chúng tôi ngạc nhiên, Bác bảo: ‘Đây là bí mật quốc gia, đừng tiết lộ ra ngoài’. Sau này, tôi mới hiểu, Bác không muốn người nước ngoài nhìn thấy sự quá giản dị của một vị lãnh tụ.
Khi về nước, Ban chấp hành TƯ Đảng Trung Quốc có tặng Bác một chiếc quạt điện, Bác không dùng mà bảo tôi:
‘Chú mày cho cái quạt này một chiếc áo rồi cất đi, bao giờ dân có Bác mới dùng’. Không dám cãi lời Bác, tôi cất đi, trong lòng vừa thấy vui vì sự hóm hỉnh của Bác lại vừa thấy xót xa.”
Theo lời kể của Ông Nguyễn Thế Văn quê ở Thái Bình là người thân cận duy nhất lo cho Bác từ giấc ngủ đến bữa ăn và theo Bác đi khắp nơi từ các vùng miền trong cả nước đến Trung Quốc, Liên Xô.
Câu chuyện: Chú sang xông nhà cho Bác
Vào các dịp lễ tết, vẫn có 1 số ít anh chị em “ăn cơm tập thể, nằm giường cá nhân” ở lại trực cơ quan. Mồng một tết âm lịch (năm 1956), nhường anh em khác về quê, tôi ở lại bảo vệ cơ quan.
Khoảng 9 giờ sáng, khi mọi người đã rộn ràng đi chúc tết, thì Bác tới. Thấy nhà vắng lặng, chỉ có mỗi mình tôi ngồi ở bàn, Bác mừng tuổi tôi một chiếc bánh chưng, một gói kẹo, chúc tôi nhân dịp năm mới, rồi Bác hỏi:
– Mồng một tết chú khai bút cái gì đó?
– Thưa Bác, cháu đang viết báo cáo tổng kết công tác năm 1955 của đội ạ.
Bác khen:
– Các chú thật cần cù, chịu khó, quanh năm vất vả. Những ngày mưa dầm gió bấc, Bác ngủ trên nhà, còn các chú phải thức suốt đêm ở dưới vườn. Tết còn phải làm việc.
Bác nói tiếp:
– Chú viết báo cáo ngắn thôi. Kết luận là: toàn đội hết lòng bảo vệ Trung ương Đảng và Chính phủ được an toàn. Không nên nói: bảo vệ Hồ Chủ tịch, vì trong Trung ương Đảng và Chính phủ là có đủ mọi người rồi.
Bác nắm tay tôi:
– Chú sang xông nhà cho Bác đi.Bác phân công tôi rửa ấm chén, còn Bác thì lau bàn ghế và cắm hoa để đón các đồng chí trong Bộ Chính trị sang chúc tết.Tết năm ấy, tôi lại là người vui nhất.
Qua bài văn này, thể hiện rất rõ sự hòa đồng, sự giản dị của Bác Hồ với chiến sĩ bảo vệ mình.
Bài học rút ra:
- Luôn phải hòa đồng với mọi người, dù thứ bậc cao hay thấp.
- Luôn biết ơn, cảm tạ người đã bảo về mình, chăm sóc mình.
- Luôn quan tâm đến người khác, không phân biệt cấp bậc, chức vụ.
Có thể bạn thích: