“Vợ chồng A Phủ” là một trong các những tác phẩm mẫu mực nhất khi viết về thiên nhiên và con người miền núi. Qua “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã khẳng định tên tuổi của mình trong văn đàn đồng thời ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bao thế hệ bởi những chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Chính những chi tiết được lồng ghép trong tác phẩm giúp nhà văn chiến thắng nhiều thử thách thời gian để ở lại trong lòng độc giả. Cùng TopChuan.com điểm lại 1 số chi tiết nghệ thuật đắt giá trong truyện nhé:
Mục lục bài viết
Căn buồng của Mị nằm
– Căn buồng ấy kín mít, có ô vuông bằng bàn tay. Hình ảnh đó giàu sức gợi, khiến người ta liên tưởng đến nhà tù, một thứ ngục thất đang giam hãm đời Mị. Đó là một không gian nhỏ bé, trơ trọi đối lập với cái mênh mông, rộng lớn của đất trời Tây Bắc.
– Chân dung số phận khổ đau của đời Mị được nhà văn khắc họa thật rõ nét: Mị sống câm lặng như đá núi “không nói”, lầm lụi,chậm chạp trợ lì như “con rùa” quẩn quanh nơi có cửa. Nếu ở trên, Mị có lúc tưởng mình là “con trâu Con ngựa” – Nhưng hình ảnh đó mới chỉ gợi nỗi khổ cực vì lao động vất vả thì hình ảnh “con rùa” có sức ám ảnh mang ý nghĩa về thân phận bị đè nén, bị bỏ quên. Mị mất hết ý niệm về không gian, thời gian: chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Cuộc sống của Mị không có sắc màu, âm thanh, không có cả ngắn dài thời gian, không chia biệt đêm ngày.
– Căn buồng ấy là biểu tượng cho ngục thất tinh thần, địa ngục trần gian giam cầm khát vọng sống, khát vọng tự do của đời Mị
– Nhà văn đã tố cáo sâu sắc chế độ giai cấp miền núi đã đầy đọa con người, làm tê liệt quyền sống, quyền khao khát hạnh phúc của họ.
Những câu hát Mị nghe
– Những câu hát này Mị không nghe trực tiếp, nó là lời Mị tự “nhẩm thầm” khi nghe tiếng sáo. Và một điều không phải ngẫu nhiên: chúng đều là lời ca của những người đang yêu hoặc đang đi tìm tình yêu, thể hiện khát vọng tình yêu – đặc biệt là khát vọng tình yêu tự do (hãy chú ý từ thể chủ động: “ta đi tìm người yêu, cô gái không yêu có quyền từ chối bắt pao, cô có quyền lựa chọn: “em yêu người nào, em bắt pao nào”…). Trước khi về nhà thống lí, Mị từng có 1 thời tuổi trẻ say mê theo tiếng sáo, theo lời hát. Và Mị đã từng yêu. Mị về nhà thổng lí với thân phận con dâu gạt nợ, bị cầm tù trong một cuộc hôn nhân ép buộc: “A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau Chính những lời ca đẹp cùng với tiếng sáo, chứ không phải chỉ bản thân tiếng sáo – đã gọi về quá khứ hạnh phúc gắn với tình yêu, tuổi trẻ, từ đó thổi bùng dậy khao khát yêu và sống trong tâm hồn Mị. Làm phép giả định ngược lại, nếu đó chỉ là những lời ca buồn, tiếng than não nuột cho thân phận thì có thể nhận được đồng cảm nhưng chưa chắc đã làm bừng lên khát vọng sống trong nhân vật.
– Về nghệ thuật: cùng với tiếng sáo, những câu hát góp phần thúc đẩy, tạo bước ngoặt trong diễn biến tâm lí của Mị. Chúng cũng tạo nên sắc thái trữ tình, chất thơ cho tác phẩm. “Chất Tây Bắc” rất riêng của vợ chồng A Phủ không chỉ được gợi ra từ cảnh sắc thiên nhiên, phong tục, Con người… mà còn từ chính những lời ca như thế.
Nước mắt A Phủ
– Do sơ ý để hổ bắt mất bò, A Phủ bị thổng lí Pá Tra trói đứng, bỏ mặc cho đói rét suốt mấy đêm liền giữa kì sương muối khắc nghiệt ở Hồng Ngài, còn Mị sau bao năm bị đọa đày cùng cực cũng đã trở nên chai lì. Những đêm trước, tuy vẫn trở dậy thổi lửa, hơ tay, nhìn thấy A Phủ bị trói nhưng Mị chỉ dửng dưng, vô cảm. Đêm ấy, trong nỗi bất lực, bế tắc và hoàn toàn tuyệt vọng, A Phủ đã khóc, đúng lúc đó, Mị nhìn sang và bắt gặp dòng nước mắt của A Phủ
– Trực tiếp bộc lộ những cảm xúc: đau đớn, tuyệt vọng… trong hoàn cảnh cùng đường của A Phủ
– Tạo ra bước ngoặt quan trọng trong tâm lí nhân vật Mị
– Thúc đẩy xung đột truyện lên đến cao trào, là đầu mối của 1 loạt những hành động bất ngờ làm thay đổi cuộc đời các nhân vật, vừa tạo sự vận động, phát triển của tính cách nhân vật vừa tạo sự vận động cho cốt truyện.
– Góp phần thể hiện giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm
– Chi tiết này thể hiện biệt tài phân tích tâm lí nhân vật của Tô Hoài. Giọt nước mắt A Phủ chảy xuống, là giọt nước mắt của một chàng trai khỏe mạnh một chàng trai tưởng như không biết sợ là gì nhưng bây giờ lại khóc? “hai mắt A Phủ vừa mở, một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đó là giọt nước mắt vô cùng hiếm hoi mà ta tưởng như không thể ngờ tới. Giọt nước mắt ấy thể hiện một nỗi đau đến tột cùng đau đớn không chỉ bởi sự thít chặt của những sợi dây mây mà có lẽ còn là sự đáng thương A Phủ đang nghĩ tới số phận của mình. A Phủ khóc, nhưng đó không hẳn là sự khóc của cam chịu giọt nước mắt ấy là của con người nghĩa khí và quật cường, lấp lánh lên những hi vọng được sống khát khao được sống. Đó cũng là sự tố cáo tội bất lương của phong kiến lúc bấy giờ.
– Chi tiết giọt nước mắt A Phủ đã cho ta thấy cuộc sống và hoàn cảnh đáng thương của người dân lúc bấy giờ. Tố cáo chế độ phong kiến và nổi bật tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài.
Sự xuất hiện của Mị ngồi quay sợi gai…
– Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pa Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt bi đát rười rượi”.
– Người con gái Tây Bắc đâu chỉ làm chỉ làm những công việc nhẹ nhàng như “quay sợi gai”, dưới sự áp bức, bóc lột tàn nhẫn của bọn thực dân, chúa đất, người con gái ở đây còn phải làm những công việc nặng nhọc của cả đàn ông. Trong nhà thống lí Pá Tra, Mị chẳng những “quay sợi gai, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi”, mà còn “cõng nước dưới khe suối lên”. “Cõng nước”, hai tiếng ấy gợi ra cái tư thế khom lưng cúi người cõng ống nước to và nặng trên lưng. Phải chăng công việc này đã khiến bờ lưng người đàn bà ngày càng còng xuống, dáng đi lom khom, vì thế mà “lúc nào cũng cúi mặt”. Song, ám ảnh nhất trong đoạn văn này có lẽ là lúc nào “cô ấy cũng cúi mặt, mặt bi đát rười rượi”.
– Chỉ với hai câu văn giản dị ấy thôi, bản chất sự vật đã hiện lên khá rõ nét. Câu văn cũng như dài thêm ra để đọc giả lĩnh hội một cách thấu đáo. Vị trí của Mị xuất hiện đã nói lên tất cả “ngồi quay sợi bên tảng đá, cạnh tàu ngựa”. Còn hình ảnh nào đắt hơn chi tiết đó? Sự hiện diện song song giữa “cô gái – tàu ngựa – tảng đá” cho thấy sự ngang tầm giữa các chủ thể: “người và súc vật, súc vật và vô tri”. Hay đó cũng chính là ngụ ý của tác giả muốn nói đến cái xã hội đương thời. Cái thực tại xám xịt này là hệ luỵ của chế độ thực dân phong kiến thối tha, là kết cục bi thương của con người lành tính. Mị – một cô gái miền cao đang tràn bung sức trẻ – ngay trong đêm tình hội xuân nồng nàn thì cuộc đời màu hồng chấm dứt. Với cái cúi mặt và nét bi đát rười rượi chứa đựng nhiều nỗi vất vả, người đọc như xót xa, cảm thông cho nhân vật nhưng cũng không khỏi tò mò về cuộc đời của người phụ nữ ấy.
Tiếng sáo đêm xuân
– Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, tiếng sáo gọi bạn tình trở thành nét đẹp trong đời sống sinh hoạt và đời sống tinh thần của con người nơi đây. Tiếng sáo được nhà văn Tô Hoài khéo léo đưa vào ở phần giữa tác phẩm. Nó làm nên một iền không gian êm dịu, nên thơ thuộc về thế giới tâm hồn đẹp đẽ của con người.
– Tiếng sáo được miêu tả từ xa đến gần, với những cung bậc khác nhau: khi tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng sáo văng vẳng gọi bạn đầu làng, tiếng sáo lửng lơ bay ngoài đường, trong đầu Mị , rập rờn tiếng sáo, tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi
– Là chi tiết có ý nghĩa tả thực về nét đẹp văn hóa của miền núi cao Tây Bắc, khiến người ta liên tưởng đến âm thanh quen thuộc, gần gũi của núi rừng trong những đêm xuân ở Hồng Ngài.
– Tiếng sáo mang đến chất thơ, làm dịu mát cuộc sống trăm đắng ngàn cay với nỗi đời Cơ cực của con người nơi đây, khiển mảnh đất Tây Bắc vốn xa lạ, hoang vu trở nên gần gũi, thơ mộng.
– Diễn tả vẻ đẹp tâm hồn Mị trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo lay thức tâm hồn Mị, khiến lòng Mị thiết tha, bồi hồi, nhẩm thầm bài hát của người đang thổi và những kí ức đẹp đẽ nồng nàn của người con gái đã trở về. Tiếng sáo đã làm bừng lên khát vọng sống trong con người nhân vật Mị. Lần đầu tiên tiếng sao xuất hiện trong tác phẩm cũng là lần đầu tiên sau bao ngày dài câm nón ở nhà thống lí. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát người đang thổi.”
– Chi tiết tiếng sáo như là chất xúc tác, làm thay đổi tâm lí nhân vật Mị, giúp người đọc nhận ra được sức sống tiềm tàng ở Mị, một sức sống mãnh liệt không gì hủy diệt được. Mị như được sống lại, và xuất hiện một sợi dây cảm xúc, sống với giai điệu và ý nghĩa bài hát của người đang thổi.
– Chi tiết tiếng sáo đêm tình mùa xuân giàu chất thơ, lai láng dư vị trữ tình có sức sống lâu bên trong tâm hồn người. Đây là chi tiết đắt giá giúp nhà văn Tô Hoài khám phá được nét đẹp tâm hồn Mị. Nhân vật Mị trong hoàn cảnh này cũng khiến người ta liên tưởng đến quá trình thức tỉnh của Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao. Những nhà văn lớn thường là những nhà nhân đạo chủ nghĩa.
Có thể bạn thích: