Xác định điều kiện khởi kiện là vấn đề cơ bản cần phải nắm được khi ý muốn khởi kiện vụ án dân sự. Người khởi kiện hoặc người tư vấn khởi kiện cần có các hào kiệt để xác định, chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.
Sự việc chưa được Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết bằng một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhưng người khởi kiện có quyền khởi kiện lại theo quy định pháp luật
Chủ thể khởi kiện chỉ được quyền khởi kiện đối với sự việc chưa được Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết bằng một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, có một vài trường hợp sự việc đã được Toà án giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực, nhưng theo quy định của pháp luật thì người khởi kiện có quyền khởi kiện lại. Ví dụ như:
- Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại…; yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, di sản; thay đổi người giám hộ hoặc đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn… mà trước đó Toà án chưa ưng ý yêu cầu và theo quy định của pháp luật đương sự được quyền khởi kiện lại.
- Nếu Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 3 điều 192, điểm c khoản 1 điều 217 Bộ luật tố tụng án dân sự thì đương sự vẫn có quyền khởi kiện lại.
- Trường hợp tranh chấp án dân sự có yếu tố nước ngoài đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Toà án nước ngoài hoặc phán quyết của trọng tài nước ngoài mà không được Toà án Việt Nam côngnhajan thì người khởi kiện vẫn có quyền khởi kiện lại tại Toà án Việt Nam.
Yêu cầu khởi kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án
Theo Điều 192 Bộ luật tố tụng án dân sự năm 2015, Toà án sẽ trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Khi đó, theo quy định của pháp luật thì các tranh chấp đó sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan, tổ chức khác. Các tranh chấp mà có thể yêu cầu Toà án giải quyết được liệt kê trong Điều 26, 28, 30, 32 Bộ luật tố tụng án dân sự năm 2015, tức các tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động.
Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng án dân sự 2015 cũng quy định Toà án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc án dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Từ đó, góp phần mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp án dân sự của Toà án, đảm bảo quyền tiếp cận công lý của chủ thể quan hệ pháp luật khi có tranh chấp.
Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
Thẩm phán sẽ trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 điều 193 của BLTTDS. Khoản 5 điều 189 Bộ luật tố tụng án dân sự 2015 quy định, kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm.
Về đơn khởi kiện, phải có hình thức theo quy định tại khoản 1, 2, 3 điều 189 BLTTDS năm 2015. Chú ý cá nhân và tổ chức thì đơn khởi kiện sẽ khác nhau. Về nội dung đơn khởi kiện sử dụng theo khoản điều 189 BLTTDS năm 2015, nêu đầy đủ các nội dung đã quy định.
Về tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện phải đảm bảo đầy đủ, hợp pháp. Trong đó, đầy đủ ưa chuộng hình thức, nội dung đơn khởi kiện, yêu cầu khởi kiện. Trường hợp không thể thu thập đầy đủ thì ít nhất người khởi kiện cũng phải nộp được tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
Thủ tục tiền tố tụng
Thủ tục tiền tố tụng là việc người khởi kiện chưa sử dụng các điều kiện khởi kiện. Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp các đương sự có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định về các điều kiện để khởi kiện. Trong Bộ luật tố tụng án dân sự năm 2015, chỉ quy định điều kiện khởi kiện do pháp luật quy định, mà chưa nhắc đến các điều kiện khởi kiện do các đương sự có thoả thuận.
Về điều kiện khởi kiện do pháp luật quy định, cần xem xét quy định trong Bộ luật dân sự, bộ luật lao động luật đất đai, luật hôn nhân và gia đình… Một số trường hợp pháp luật quy định tranh chấp cần phải được giải quyết bởi cơ quan, tổ chức khác trước khi khởi kiện tại Toà án. Ví dụ như tranh chấp đất đai; tranh chấp bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ của nhà nước gây ra; tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể về quyền…
Người khởi kiện
Người khởi kiện hay chủ thể khởi kiện phải có quyền khởi kiện và có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Điều này được quy định tại điểm a khoản 1 điều 192 Bộ luật tố tụng án dân sự năm 2015.
Thứ nhất, người khởi kiện phải là người có quyền, lợi ích hợp pháp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Đồng thời, quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm mới có quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của mình.
Tuy nhiên, có một vài trường hợp đặc biệt, để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách thì các cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng có quyền khởi kiện. Ví dụ như: cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, người khởi kiện cần có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, trong đó cần căn cứ quy định tại Điều 69 Bộ luật tố tụng án dân sự năm 2015 để xác định năng lực hành vi tố tụng án dân sự của cá nhân. Người khởi kiện là cơ quan, tổ chức sử dụng quyền khởi kiện thông qua người đại diện hợp pháp.
Có thể bạn thích: