Theo Tổ chức Y tế Thế giới, đại dịch được địch nghĩa là “một bệnh dịch xảy ra trên toàn thế giới, hoặc trên một khu vực rất rộng, vượt qua ranh giới giữa các quốc gia và thường ảnh hưởng đến một số lượng lớn người dân”. Ở Việt Nam, từng có rất nhiều đại dịch đáng sợ và cướp đi sinh mạng của nhiều người. Sau đây, hãy cùng TopChuan.com đểm qua những đại dịch đáng sợ nhất lịch sử Việt Nam.
HIV/AIDS
Căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS hiện vẫn là một trong các những vấn đề y tế nan giải của toàn cầu, bắt nạt dọa trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của con người. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhưng căn bệnh này vẫn chưa thể đẩy lùi. Kể từ khi bùng phát vào thập niên 80 của thế kỷ trước, đại dịch HIV/AIDS đã cướp đi sinh mạng của hơn 35 triệu người trên toàn thế giới.
Trong 9 tháng đầu năm 2019, Việt Nam đã phát hiện mới gần 7.800 trường hợp nhiễm HIV, gần 3.000 bệnh nhân chuyển sang giai đoạn AIDS, hơn 1.400 trường hợp tử vong. Ước tính đến nay, Việt Nam có khoảng hơn 211.000 người nhiễm HIV.
- Con đường lây nhiễm của HIV/AIDS: Đường máu, đường tình dục, đường từ mẹ sang con
Hướng tới mục tiêu ngăn ngừa và loại trừ đại dịch HIV/AIDS, trong những năm gần đây, ngành y tế Việt Nam đã mở rộng và đa dạng dịch vụ xét nghiệm HIV, phát hiện gần 10.000 trường hợp nhiễm HIV mới thông qua các loại hình xét nghiệm mới như: xét nghiệm tại các cơ sở y tế, xét nghiệm dựa vào cộng đồng, tự xét nghiệm, sử dụng sinh phẩm mới để phát hiện sớm nhiễm HIV. Điều trị bằng kháng retrovirus cũng có thể kéo dài tuổi thọ của bệnh nhân ước tính trung bình là hơn 5 năm
Đại dịch COVID-19
Covid – 19 là viết tắt của Coronavirus disease 2019 – một đại dịch truyền nhiễm gây ra bởi virus SARS-CoV-2 – một chủng mới của virus Corona, gây viêm đường hô hấp cấp ở người và có khả năng lây lan từ người sang người.
Ca ghi nhận lần đầu tiên tại Việt Nam vào ngày 23 tháng 1 năm 2020, với hai trường hợp được xác nhận ở Thành phố Hồ Chí Minh, đều là những người đến từ thành phố Vũ Hán của tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Tính đến tháng 3 năm 2020, đại dịch COVID-19 tại Việt Nam có thể chia thành hai giai đoạn lây nhiễm chính, với 22 ngày cả nước không ghi nhận thêm ca nhiễm mới nằm giữa hai giai đoạn.
Từ ngày 6 tháng 3, Việt Nam bắt đầu ghi nhận 1 loạt các trường hợp mới liên tiếp mỗi ngày, phần lớn trong số đó là những người đến từ vùng có dịch trên thế giới. Sự lây lan trong cộng đồng cũng đang diễn ra. Tính đến ngày 4 tháng 4, Việt Nam ghi nhận 240 ca nhiễm, trong đó có 90 bệnh nhân đã xuất viện và chưa ghi nhận trường hợp tử vong nào.
Các triệu chứng của COVID – 19:
- Các triệu chứng của bệnh nhân mắc nCoV từ nhẹ đến nặng có thể bao gồm: sốt, ho và khó thở. Các triệu chứng này có thể xuất hiện từ 2 đến 14 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh.
Các biện pháp phòng chống COVID – 19:
- Hạn chế tiếp xúc trực tiếp với người bị bệnh đường hô hấp cấp tính
- Người có các triệu chứng sốt, ho, khó thở không nên đi du lịch hoặc đến nơi tập trung đông người
- Rửa tay thường xuyên với xà phòng và nước sạch trong ít nhất 30 giây
- Chỉ sử dụng các thực phẩm đã được nấu chín.
- Giữ ấm cơ thể, tăng cường sức khỏe bằng ăn uống uống, nghỉ ngơi, sinh hoạt hợp lý, luyện tập thể thao.
- Nếu có dấu hiệu sốt, ho, khó thở phải đeo khẩu trang bảo vệ, thông báo ngay cho cơ sở y tế gần nhất để được tư vấn, khám, điều trị kịp thời
Dịch hạch
Bệnh dịch hạch là bệnh lý truyền nhiễm gây ra do vi khuẩn Yersinia pestis. Bệnh diễn tiến cấp tính với biểu hiện nhiễm khuẩn nhiễm độc toàn thân nặng nề. Người nhiễm vi khuẩn gây bệnh từ các loại động vật gặm nhấm như thỏ, chuột,… thông qua vật trung gian là bọ chét nhiễm khuẩn. Ở Việt Nam vector gây bệnh chính là bọ chét Xenopsylla cheopis sống ký sinh chủ yếu trên chuột.
Ở Việt Nam, từ năm 1960-1970, mỗi năm có khoảng 10.000 trường hợp mắc bệnh, đứng đầu thế giới. Số ca bệnh giảm mạnh chỉ còn khoảng 140 trường hợp mỗi năm trong những năm sau đó. Đến nay gần như không ghi nhận được bất cứ trường hợp mắc dịch hạch nào ở các cơ sở y tế. Bệnh lan truyền từ loài gậm nhấm (chủ yếu là chuột) sang người, chủ yếu qua bọ chét chuột (Xenopsylla cheopis). Đây là véc tơ chính truyền bệnh dịch hạch.
Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh dịch hạch bao gồm:
- Môi trường sống ô nhiễm, không đảm bảo vệ sinh
- Sống trong các khu vực bệnh dịch hạch lưu hành
- Thường xuyên tiếp xúc với các loài động vật gặm nhấm
- Sức đề kháng của cơ thể suy yếu
Đậu mùa
Đậu mùa là căn bệnh truyền nhiễm của riêng loài người, gây bởi hai dạng virus Variola major và Variola minor. Loại V major độc hại hơn, gây tử vong trong số 30-35% bệnh nhân. V minor gây dạng bệnh nhẹ hơn, giết khoảng 1% bệnh nhân. Hậu quả của đậu mùa thường là vết sẹo trên da nhưng cũng có khi làm nạn nhân mù vì giác mạc bị sẹo. Phái nam còn có thể bị hiếm muộn.
Lịch sử Việt Nam có ghi lại một số những nhân vật chết vì bệnh đậu mùa. Trong đó có Hoàng tử Cảnh, người con cả của vua Nguyễn Thế Tổ (niên hiệu Gia Long). Hoàng tử Cảnh mất năm 22 tuổi, để lại một vợ và hai con. Vua Tự Đức cũng bị bệnh đậu mùa và bị vô sinh nên nhận một người con nuôi lên làm vua và chỉ tại vị được 3 ngày, đó là vua Dục Đức.
Sử nhà Nguyễn cũng ghi hai nạn dịch lớn trước thời Pháp thuộc:
“Năm Canh Thìn (1820) tháng 11 (âm lịch) bệnh dịch lan tràn, khởi đầu từ Hà Tiên đến Bắc Thành. Nhiều người chết. Nhà nước chẩn cấp cho dân tổng cộng 73 vạn quan tiền.”
“Năm Canh Tý (1840) tháng 9 (âm lịch) ở Sơn Tây từ mùa xuân đến mùa thu có hơn 4.900 người chết dịch.”
Bệnh tả
Bệnh tả hay thổ tả (Cholera) là một bệnh nhiễm trùng đường ruột do vi trùng Vibrio cholerae gây ra, độc tố của vi trùng này gây tiêu chảy nặng kèm theo mất nước nặng có thể dẫn đến tử vong. Đây là một bệnh cực kỳ nguy hiểm, người bệnh sẽ xuất hiện các triệu chứng bệnh sau 12 giờ đến 5 ngày kể từ khi sử dụng thực phẩm hoặc nguồn nước bị nhiễm khuẩn.
Bệnh tả lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam năm 1850 với 2 triệu trường hợp bệnh được ghi nhận. Từ năm 1910-1938, số bệnh nhân mắc tả hàng năm dao động từ 5.000 – 30.000 người. Bệnh tả El Tor lần đầu tiên xuất hiện ở miền Nam năm 1964 với 20.009 người mắc bệnh trong đó 821 người đã tử vong. Ngày nay, ở Việt Nam, bệnh tả xảy ra dưới dạng dịch lưu hành. Hàng năm có hàng trăm bệnh nhân bị bệnh tả được ghi nhận.
Các nguồn lây nhiễm phổ biến bao gồm:
- Người mang bệnh tả trong thời gian phát bệnh;
- Người lành mang phẩy khuẩn tả;
- Rau trồng với nước chứa chất thải của con người;
- Cá và hải sản sống hoặc nấu chưa chín đánh bắt trong vùng nước bị ô nhiễm hoặc nước thải.
Các biện pháp điều trị bệnh tả
- Thực hiện các phương pháp cách ly bệnh nhân nhiễm khuẩn tả;
- Bồi phụ nước, chất điện giải nhanh chóng và đầy đủ thông qua đường uống (sử dụng ORS) hoặc truyền tĩnh mạch tùy tình trạng nguy kịch của bệnh;
- Sử dụng kháng sinh hợp lý dựa trên kết quả kháng sinh đồ;
- Nên cho bệnh nhân ăn uống sớm, dạng ăn uống uống lỏng, dễ tiêu. Đối với trẻ còn bú, cần tăng cường bú mẹ.
Chủ động tiêm vắc xin phòng tả là biện pháp hữu hiệu chống bệnh tả
Cúm H1N1
Bệnh cúm A H1N1 gây ra bởi cơ thể nhiễm vi rút cúm A H1N1 – một loại vi rút cúm được phát hiện vào năm 2009.Loại cúm này còn được gọi là cúm lợn vì ban đầu các nhà khoa học cho rằng chủng cúm này có nguồn gốc từ lợn (khác với chủng cúm A H1N1 trước đó). Cúm A H1N1 bùng phát mạnh vào năm 2009 và có tốc độ lây lan rất nhanh.
Tại Việt Nam, ca bệnh đầu tiên ghi nhận ngày 26/5/2009 và bùng phát mạnh vào những tháng cuối năm 2009, hàng nghìn người đã nhiễm virus cúm và nhiều người tử vong.
Đặc điểm của dịch bệnh cúm A H1N1:
- Virus cúm A H1N1 có thể dễ dàng lây lan từ người sang người giống như cách lây lan của cúm thường qua không khí có chứa các hạt nước nhỏ li ti khi người bệnh ho, hắt hơi, cười hoặc nói chuyện.
- Người bệnh cũng có thể nhiễm vi rút cúm do tiếp xúc, chạm tay vào bề mặt vật dụng bị nhiễm vi rút, chạm vào khăn giấy đã dụng có nhiễm vi rút sau đó đưa tay lên mũi, miệng hoặc dụi mắt.
- Việc dùng chung đồ dùng, ly uống nước, hoặc bàn chải đánh răng với người bệnh cũng có thể lây nhiễm vi rút cúm A(H1N1).
Phòng bệnh cúm A H1N1:
- Rửa tay bằng xà phòng thường xuyên, tránh tối đa việc chùi tay lên mắt và mũi, che miệng và mũi khi ho hoặc hắt hơi; không khạc nhổ bừa bãi.
- Hàng ngày sử dụng các dung dịch sát khuẩn đường mũi, họng, mắt; tránh tiếp xúc gần với người bệnh hoặc người nghi nhiễm cúm.
- Ăn ăn uống uống uống nhiều chất dinh dưỡng để ngăn ngừa nhiễm virus cúm.
- Thường xuyên vệ sinh, lau sạch các bề mặt, vật dụng tiếp xúc hằng ngày, sàn nhà bằng xà phòng hoặc các chất tẩy rửa thông thường; mở cửa thoáng mát nơi ở, lớp học, phòng làm việc
- Bên cạnh đó, người dân có thể đi tiêm vắc-xin để phòng bệnh.
Có thể bạn thích: