Thời kỳ Phục Hưng là thời kì đánh dấu sự thành công vang dội của lịch sử hội họa ở phương Tây. Sau hàng trăm năm bị lãng quên, tinh hoa văn hóa từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại một lần nữa lại sống dậy trong thế kỷ 14. Rồi đến thế kỷ 16, có thể nói toàn bộ châu Âu đã chuyển mình sang một loại hình mỹ thuật hoàn toàn mới. Góp phần làm nên lịch sử vàng son đó phải kể các các kiệt tác của những nhà danh họa tài ba như: Leonardo da Vinci, Michelangelo, Raphael, Paolo Veronese… – đại diện cho đỉnh cao của mỹ thuật và đã được nhiều họa sĩ khác học hỏi.
Bức “Trường học Athens” – Raphael
Trường học Athens (School of Athens) là một trong các bộ tứ tranh tường của Raphael, ra đời vào khoảng giữa giai đoạn 1509 – 1511. Trường học Athens thể hiện cách hiểu triết học của Raphael như một kiến thức về hiện thân của Thiên Chúa, với Plato và Aristotle đặt ở trung tâm của khung cảnh, giống như Chúa Giêsu là trung tâm trong bức tranh “Tiệc cưới ở Cana” của Paolo Veronese.
Tổng cộng, bức tranh có 21 triết gia nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại, như Pythagoras, Heraclitus… trong đó Plato và Aristotle được đặt ở trung tâm. Hai người này, một già – một trẻ, một giản dị, chân chất – một hào nhoáng, như đang tranh luận về một vấn đề nào đó, mà đa phần giới chuyên môn cho rằng đó là sự khác biệt về 2 trường phái triết học.
Đối với Plato, đó là thuyết Hình thức (theory of Forms) – nơi sự “tồn tại” là cái phi vật chất, là cái nhận biết được bằng trí tuệ siêu nhiên, còn “không tồn tại” là vật chất. Còn Aristotle, ông coi sự “lưu trú” vật lý là thực và hiện thực là chân lý.
Đó là 2 trục tư tưởng triết học mà nhiều triết gia khác nương theo. Raphael không đứng về bên nào, mà cách thể hiện của ông dường như cho thấy ngôi trường của các triết gia không phải để họ ganh đua, mà vì một nhu cầu chung nhằm tìm kiếm tri thức và sự thật của cuộc sống.
Bức “Chúa tạo ra Adam” – Michelangelo
Danh họa Michelangelo đã tạo ra bức tranh để đời của mình – The creation of Adam. Bức tranh treo tường này nằm trên trần nhà nguyện Sistine ở Vatican City được vẽ từ năm 1511 đến năm 1512.
Bức tranh mô tả về một giai thoại trong Sách Sáng thế, khi Chúa thổi hồn và tạo ra Adam – con người đầu tiên trên thế giới. Bên cạnh những giá trị về mặt hội họa, ý nghĩa của bức tranh cũng gây ra khá nhiều tranh cãi trong giới nghệ thuật. Nổi bật trong số đó là ý tưởng về việc Michelangelo đã dựa trên nền tảng cấu trúc giải phẫu của con người để làm nên bức tranh này.
Năm 1990, Frank Meshberger đã công bố một nghiên cứu, cho rằng hình mẫu Chúa trong bức họa của Michelangelo thể hiện một cách chính xác cấu trúc giải phẫu của não người, với những đường nét đầy đủ về bề mặt trong và ngoài não bộ, gồm thân não, thùy trước trán, động mạch thân nền, tuyến yên.
Ngoài ra, còn một ý tưởng khác, đó là miếng vải đỏ xung quanh Chúa là hiện thân của tử cung con người, còn dây xanh chính là dây rốn. Người đưa ra lý thuyết này là một nhóm chuyên gia Ý và theo họ, điều đó thể hiện việc lý tưởng hóa sự ra đời của một người đàn ông, dựa trên chính hiện thực trong cuộc sống.
Thật không may, kiệt tác của Michelangelo và một trong các những tác phẩm nổi tiếng nhất trong đỉnh cao của thời kỳ Phục hưng và âm nhạc tôn giáo bị thiệt hại do khói nến liên tiếp trong nhiều thế kỷ, đã làm cho bức tranh bị tối đi và trở thành một cái bóng ảm đạm. Trong những năm 1980, trần nhà nguyện Sistine đã trải qua một đợt phục hồi quy mô lớn đã tiết lộ màu sắc thật và các chi tiết được ẩn trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, việc phục hồi cũng đã gây ra rất nhiều tranh cãi giữa các nhà sử học nghệ thuật.
Bức “Đám cưới tại Cana” – Paolo Veronese
Đám cưới tại Cana (The Wedding at Cana) là kiệt tác tranh sơn dầu của danh họa Ý – Paolo Veronese, được vẽ năm 1563 cho tu viện Benedectine San Giorgio Maggiore ở Venice.
Bức tranh mô tả lại Đám cưới theo Kinh thánh tại Cana, về phép lạ đầu tiên mà chúa Jesus thực hiện cho loài người. Cụ thể, chúa Jesus và các môn đệ được mời đến dự một tiệc cưới tại Cana (địa danh này ở đâu thì vẫn còn đang gây tranh cãi). Tuy nhiên, khi tiệc đang ở cao trào thì rượu hết. Trước sự bối rối của gia chủ, chúa Jesus yêu cầu gia nhân đổ đầy nước vào các chum, rồi sau đó biến tất cả thành rượu mới.
Bức tranh thể hiện một bữa tiệc có 130 thực khách, với chúa Jesus là trung tâm. Tuy nhiên kỳ lạ thay, 130 con người ấy làm đủ thứ chuyện có thể xảy ra ở một con người, chỉ trừ việc nói chuyện. Điều này, theo phân tích của 1 số ít nhà mỹ thuật, là một sáng tạo của Veronese khi thể hiện truyền thống của tu viện Benedectine – giữ im lặng trong phòng ăn.
Phía trên là một bầu trời xanh, sáng với những đám mây trắng, như muốn thắp sáng và làm sâu sắc thêm quan điểm của người xem về thời gian, địa điểm và bản thân những người được mời đến đám cưới. Nhưng sâu xa hơn, Veronese còn muốn nhấn mạnh đến vấn đề khoái lạc trong yến tiệc, về sự xa hoa phi lý của xã hội đương thời, qua đó phản biện công khai những gì được cho là nhạy cảm của Venice thời kỳ cuối Phục Hưng.
Người ta nói rằng Veronese đã vẽ chính mình là một trong các số 130 khách mời tham dự bữa tiệc cưới này (người mặc áo trắng cầm chiếc đàn Viol ngồi cạnh Titian và Bassano). Bức tranh với kích thước 666 cm x 990cm hiện được trưng bày tại bảo tàng Louvre, Paris.
Bức ” San Zaccaria Altarpiece” – Giovanni Bellini
Bức tranh sơn dầu trên chất liệu vải này được Giovanni Bellini vẽ vào năm 1505. Đây là một trong các những hình mẫu tốt nhất của cái gọi là conversazione sacra hoặc “chuyện thiêng liêng” được các nghệ sĩ thời Phục hưng Ý phát triển và thay thế các hình thức polyptych cứng nhắc của giai đoạn trước đó.
Đức Trinh Nữ Maria với Chúa Giêsu bé trong trung tâm được mô tả cùng với bốn vị thánh Kitô giáo – Thánh Peter và Thánh Catherine của Alexandria ở bên trái, và Thánh Gerome và Thánh Lucy ở bên phải – và một thiên thần chơi violin tại chân bàn thờ. Bức tranh được đặt trong nhà thờ San Zaccaria ở Venice, Ý.
Bức tranh giúp con người mãi thấy được vẻ đẹp và sự vĩ đại của Thần, để luôn tin ‘thiện ác độc hữu báo’, kẻ làm ác độc sẽ bị ác độc báo, người tốt sẽ có phúc báo, người tu sẽ lên thiên đường.
Bức “Ngày phán xét cuối cùng” – Hieronymus Bosch
Bức tranh bộ ba này được họa sĩ Hà Lan vẽ vào khoảng năm 1505 và 1510, bao gồm ba bức:
- Bức bên trái mô tả Vườn Địa Đàng khi Adam và Eva bị cám dỗ bởi Con Rắn trên cây.
- Bức ở giữa mô tả phán xét cuối cùng với Chúa Giêsu trên ngai vàng, là thẩm phán của thế giới.
- Bức bên phải mô tả địa ngục, bức này có bối cảnh rất giống với bức trung tâm, nhưng thay vì là Chúa Giêsu, nó lại diễn tả quỷ Sa-tan đã nhận được linh hồn của những người bị đày xuống địa ngục.
Đề tài ‘tội lỗi và trừng phạt’ là trọng tâm trong tất cả các tác phẩm của Bosch. Bức tranh trung tâm đại diện cho tội lỗi thông qua ẩn dụ về cỗ xe ngựa lớn chở cỏ khô, thứ mà thế giới tham lam đang giành giật lấy. Cùng lúc ấy, ma quỷ đang kéo cỗ xe sang bức tranh phía bên tay phải – một trong các những mô tả đầu tiên của Bosch về địa ngục.
Chúa xuất hiện ở phần trên cùng của bức tranh “Vườn địa đàng”, với một khối cầu trong tay biểu tượng cho vũ trụ. Ba cảnh bên dưới thể hiện “Sự sáng tạo ra Eve,” “Ăn trái cấm” và “Adam và Eve bị trục xuất khỏi Vườn địa đàng” theo thứ tự thời gian. Những tác phẩm thời tiền Phục Hưng sử dụng một kỹ thuật điển hình là tả cảnh theo thứ tự thời gian để chúng có thể được ‘đọc’ như một câu chuyện.
Tại bức tranh trung tâm, những người đàn ông và đàn bà đang xúm quanh cỗ xe chất đầy cỏ khô, tranh giành nhau để lấy một ít cỏ khô với tất cả khả năng và dụng cụ của họ. Họ đi xa tới mức giết hại cả người khác chỉ để lấy một nhúm cỏ. Một nhóm thầy tu và bà xơ ở phía dưới cùng góc bên phải đã lấy được một bao cỏ. Vài người trong số họ đang phân chia và tích trữ cỏ, trong khi những người khác đã thưởng thức cỏ. Thậm chí cả nhà vua, giám mục và nhà quý tộc cũng đang lo lắng đuổi theo ở phía bên phải cỗ xe. Không ai nhận ra rằng ma quỷ đang kéo cỗ xe xuống địa ngục (sang bức tranh bên tay phải). Tranh của Bosch đã minh họa một cách vô cùng xuất sắc câu ngạn ngữ Flemish “Thế giới là một đống cỏ khô, và người ta cố gắng nhổ lấy càng nhiều càng tốt”.
Bức “Bữa tối cuối cùng” – Leonardo da Vinci
Ra đời trong giai đoạn 1495 – 1498, bức tranh tường The Last Supper của Leonardo da Vinci được xem là một trong các những kiệt tác về Thiên chúa trong giai đoạn Phục Hưng. Bức tranh treo tường này nằm trên tường sau phòng ăn tu viện Dominica Santa Maria delle Grazie ở Milan, Ý, được vẽ vào thời gian 1495 – 1498. Nó khác biệt với các bức bích họa khác cùng thời đại vì ông Da Vinci đã tạo ra nó bằng cách sử dụng các sắc tố thực nghiệm trực tiếp trên tường thạch cao khô. Nhưng ngay cả trước khi nó được hoàn thành, sơn vẽ đã bị bong tróc ra khỏi bức tường.
Ý tưởng của bức họa dựa trên bối cảnh bữa ăn cuối của chúa Jesus cùng 12 môn đệ, thời điểm Chúa tuyên bố rằng một trong các số những môn đệ sẽ phản bội người.
Bức tranh thể hiện phản ứng rất sắc nét của 12 môn đệ. Bartholomew, James bé (James Minor), Andrew, cả 3 rất ngạc nhiên. Judas ngỡ ngàng, Peter nắm chặt dao phẫn nộ, còn John – môn đồ trẻ nhất – ngất đi. Đó là nhóm bên trái. Bên phải là Thomas trông có vẻ ảm đạm bã, James lớn (James Major) choáng váng, Philip thể hiện gương mặt muốn một lời giải thích. Còn Jude Thaddeus và Matthew đưa mắt nhìn Simon với vẻ mặt… nghìn dấu hỏi.
Nhìn chung, nội dung bức tranh hướng trực tiếp đến một giai thoại trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, các chuyên gia mỹ thuật đánh giá đây là một công trình cực kỳ phức tạp, thể hiện hệ thống toán học, tâm lý học rất rắc rối, đưa ra quan điểm đa chiều, và xứng đáng là một tác phẩm tiên phong, vượt trội về tính thẩm mỹ trong âm nhạc Phục Hưng.
Có thể bạn thích: