Lòng nhân hậu là thứ tình cảm thiêng liêng, là sự tôn trọng, yêu thương, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa con người và con người. Tấm lòng nhân hậu cũng được xuất hiện rất nhiều trong các truyện cổ tích, là bài học nhân văn đối với mỗi con người, và trong bài viết hôm nay TopChuan.com sẽ giới thiệu đến bạn top các truyện cổ tích về tấm lòng nhân hậu hay nhất.
Sự tích con cua
Sự tích con cua muốn đề cao tính tốt bụng nhân hậu của cô gái mồ côi sống cùng người mẹ kế, dù cho cuộc sống có bất hạnh, chịu nhiều tổn thương, đòn roi từ người mẹ kế nhưng cô vẫn giữ trong mình một sự hồn nhiên tốt bụng, biết giúp đỡ người khác, và đã được đền đáp cho lòng tốt của mình, bên cạnh đó yếu tố đặc biệt của câu chuyện là việc người con gái ruột đỏng đảnh của mẹ kế bị biến thành con cua cả đời phải chui lủi xống bùn đất vì khinh thưởng người khác. Tính nhân văn trong tác phẩm được nêu cao về lòng nhân hậu của con người đối mặt với các ác và cái ác nhất định sẽ có ngày bị trừng trị.
Sự tích con cua là truyện cổ tích về loài vật, răn dạy các bé phải biết giúp đỡ người khác trong cuộc sống, cũng như lễ phép với những người lớn tuổi. Câu chuyện kể về một cô gái xinh đẹp, nết na nhưng kém may mắn hơn những người khác. Cô mồ côi mẹ lúc chưa đầy tháng tuổi. Cha lấy vợ kế được một thời gian thì chẳng sao ông sinh bệnh rồi qua đời, để lại cô con gái bé bỏng một mình. Cô gái sống với mẹ kế cùng đứa con riêng của mẹ. Cô con gái riêng của bà mẹ kế suốt ngày chỉ ra ngắm vào vuốt, chẳng phải làm việc gì cả, mà có làm gì thì cũng chẳng thành. Nhưng mọi lời khen ngời bà mẹ đều dành cho cô ta và cô ta lấy thế làm hãnh diện lắm. Lúc nào công ta cũng vênh vênh, váo váo, kiêu kỳ, tự cao tự đại cứ như mình là lá ngọc cành vàng vậy. Còn cô gái mồ côi thì phải làm hết mọi việc. Biết thân phận mình, vốn tính hiền lành, ngoan ngoãn, cô chịu đựng hết thảy, nín lặng làm hết mọi việc bà mẹ ghẻ đổ lên đầu. Cô dằn lòng gánh chịu mọi lời mắng chửi trút xuống đầu mình. Bao nhiêu người thương mến cô, thông cảm cho hoàn cảnh của cô, nhưng họ chẳng biết làm gì để giúp cô bớt khổ. Một hôm khi ra bờ suối giặt đồ cho mẹ kế và con gái riêng của bà, cô gặp một bà cụ rách rưới, bẩn thỉu đứng bên cạnh con phều phào xin nước uống. Nước sông đục ngầu nên cô lấy ống nước đem theo đưa cho bà cụ. Bà cụ uống nước xong liền cho cô cái bọc nhỏ, bảo là thưởng cho lòng tốt của cô. Mở ra thấy chiếc váy đẹp này, cô định trả lại cho bà cụ, nhưng không thấy bà đâu nữa. Về nhà cô bị mẹ kế phát hiện và đánh đập bắt khai ra cái váy ấy ở đâu. Biết được cô gái tội nghiệp không nói dối mụ mẹ kế liện tính các cho con gái của mình ra sống giặt đồ để gặp được bà lão tiên xin cho được đẹp hơn. Kể từ hôm đó cô gái tội nghiệp không phải ra sống giăt đồ nữa , cô con gái riêng của mụ mẹ kế đã thay thế công việc cho cô. Việc giặt đồ ở sông không dễ thực hiện nhưng mong muốn được gặp bà tiên để xin cho mình đỡ xấu đã thôi thúc cô ta. Một hôm khi đang giặt đồ ở sông thì người con gái của người mẹ kế đã thấy một bà lão xuất hiện. Nhìn thấy bà cụ, cô gái kiêu kỳ định lấy bầu nước của mình ra đưa cho bà. Nhưng bà cụ lại bảo nhờ cô giặt giúp cái váy lấm lem bùn của bà ấy. Cô gái đỏng đảnh đáp “Cái mụ già bẩn thỉu này. Bà nghĩ tôi là gì mà bảo tôi làm cái việc ghê tởm ấy. Dạng bà xách dép cho tôi còn chưa xứng.” Lập tức bà lão liện hiện hình là một bà tiên , cô gái đỏng đảnh hốt hoảng kêu lên. Cô ta hiểu là mình đã phạm sai lầm không thể cứu vãn được. Thế là công toi mấy ngày mình phải chịu khổ sở. Cô gái mở miệng định xin bà cụ tha lỗi và cầu xin cụ cho mình được xinh đẹp thì bà cụ đã nghiêm sắc mặt. Bà cụ đáp “Một con người có tâm hồn xấu xí thì không thể trở thành người con gái xinh đẹp được. Lũ các ngươi phải bị trừng phạt”. Bà cụ nói xong thoắt biến mất như chưa từng xuất hiện ở đấy. Liền sau đó, cô gái đỏng đảnh cũng biến mất. Ở chỗ cô ta vừa đứng, xuất hiện một con vật nho nhỏ, xám xịt, chân cẳng tua tủa. Đến nay cứ thấy người lại gần con vật đó lại vội lủi xuống sông. Đó chính là con cua.
Sự tích cây xoài
Sự tích cây xoài là câu chuyện cổ tích Malaysia, kể về một cậu bé có trái tim nhân hậu, khi chết đi đã hóa thành cây xoài, sống mãi trong lòng mọi người.
“Ngày xửa ngày xưa, không rõ từ thủa nào, chỉ biết rằng đã từ rất lâu rồi, từ thời cụ kị của ông cha kể lại, có gia đình bác nông dân nghèo nọ sinh được một cậu con trai. Cậu bé ngoan ngoãn, thật thà và tốt bụng. Nhà tuy nghèo, nhưng bố mẹ và cậu bé luôn giúp đỡ mọi người từ miếng cơm manh áo. Còn cậu bé ngày càng hiếu thảo, hay giúp cha mẹ công việc trong nhà, ngoài đồng.
Tên cậu bé là Đô-xi-gô-la, nhưng cha mẹ yêu quý gọi cậu bằng cái tên thân mật là: Đô-xi bé bỏng.
Đô-xi hay giúp đỡ mọi người và chăm sóc một bà già tàn tật sống ở cuối làng như chính cha mẹ mình. Bà cụ lấy làm vui lắm mỗi khi cậu bé đến.
– Bà ơi, cháu hái rau cho bà nhé! – Đô xi nói – Cháu mang theo cho bà mớ tép mà cháu vừa mới tắt được ở đầm đây.
– Cảm ơn cháu! – bà già nói – Cháu có biết cháu đem đến cho bà bao nhiêu là niềm vui không? Cháu ngoan lắm!
Không những giúp bà cụ mà cậu còn giúp đỡ bao nhiêu người neo đơn khác ở trong làng, vì thế cho nên người nào cũng yêu mến cậu.
– Thằng bé thật là ngoan. – Các cụ già khen.
– Thằng bé thật hiếu thảo! Các con phải sống như anh Đô-xi ấy! – Các bà mẹ thường lấy Đô-xi ra làm gương cho con cái.
Thế rồi một hôm, mưa to gió lớn, sấm chớp ầm ầm. Có một bà cụ ăn mày, quần áo ướt sũng, chân tay run lẩy bẩy bước tới làng xin ăn. Đô-xi lấy cho bà một bộ quần áo của mẹ cậu để thay cho bộ đồ đã ướt sũng nước mưa kia. Sau đó, cậu vội vàng đốt lửa cho bà cụ sưới, rồi và mang cơm ra mời bà cụ ăn.
– Cháu quả là có tấm lòng nhân hậu. Mọi người sẽ không bao giờ quên tấm lòng tốt của cháu đâu. – Bà cụ già nói.
Một thời gian sau, Đô-xi bị ốm. Cha mẹ cậu rất buồn. Bà con láng giềng thay nhau đến để chăm sóc cho cậu. Nhưng vì bệnh hiểm nghèo nên Đô xi đã qua đời. Cha mẹ cậu đau lòng, khóc thương con thảm thiết. Dân làng cũng không ai kìm được nước mắt.
– Đô-xi tốt bụng đã không còn nữa, chú bé chịu thương chịu khó đã mất rồi! – Mọi người thương tiếc nói với nhau.
Bỗng nhiên bà lão ăn mày được Đô-xi giúp đỡ xuất hiện. Lúc này bà cụ đến với bộ quần áo trắng sạch sẽ, khuôn mặt bà rạng rỡ sáng ngời. Bà đến bên cạnh cậu bé và nói với mọi người đang khóc thương Đô-xi:
– Xin mọi người đừng quá đau buồn. Đô-xi mất đi, nhưng trái tim yêu thương của cậu bé sẽ sống mãi.
Mọi người đều nhìn bà kinh ngạc: Làm sao có thể làm sống lại trái tim của người đã chết.
Như đoán được ý của mọi người, bà cụ nói tiếp:
– Tôi sẽ mang trái tim của Đô-xi về trời, rồi mọi người sẽ thấy trái tim đó luôn sống mãi bên cạnh chúng ta.
Nói xong, bà cụ liền mang trái tim của Đô-xi đặt vào chiếc hòm gỗ. Bà đem chôn quả tim của cậu bé ở góc vườn đẹp nhất.
Mấy ngày sau, mọi người thấy ở chỗ chôn quả tim của Đô-xi mọc lên một mầm cây. Và chỉ qua vài ngày, cây lớn nhanh như thổi, cành lá xum xuê. Thấy thế, mọi người cùng nhau chăm bón cây lạ. Cây bắt đầu ra hoa, rồi tạo thành những quả có hình dạng giống như trái tim. Một thời gian sau, quả bắt đầu chín vàng. Mọi người cẩn thận hái xuống nếm thử.
– Chà, ngọt quá! Mùi thơm mới dễ chịu làm sao? Đúng là trái tim của Đô-xi.
Rồi mọi người bàn bạc cách đặt tên cho thứ quả thơm đó.
– Chúng ta hãy gọi tên nó là “Đô-xi”!
Thế là quả mới được mọi người lấy tên Đô-xi đặt cho. Theo thời gian, tên được gọi chệch đi thành “Mango”. Theo tiếng Pekan – một vùng thuộc Malaysia, Mango có nghĩa là “quả xoài”. Và câu chuyện Sự tích cây xoài được bắt nguồn từ đó.”
Chàng Quân Tử
Chàng Quân Tử là một câu chuyện cổ tích rất hay trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam. Câu chuyện là bài học cho chúng ta về cách sống lòng nhân hậu tình yêu thương và không làm tổn hại đến các loài vật, nhất định sẽ nhận được những phần thưởng xứng đáng.
Ngày xưa, có một anh chàng nghèo sống một thân một mình. Anh thường ăn ở nhân đức với mọi người, lòng nhân đức của anh còn ban phát đến cả giống vật. Bởi thế người ta quen gọi anh là Quân Tử.
Trong nhà có bao nhiêu của nả, anh lần lượt đem ra giúp đỡ cho người nguy kẻ khó, còn mình thì sống rất đạm bạc. Một hôm, gần ngày kỵ cha, Quân Tử có để dành được mấy bát gạo nếp và một con gà để làm giỗ. Có một con chuột hôm ấy chui vào hũ gạo , và một con cáo ban đêm định lẻn vào nhà Quân Tử bắt gà . Quân Tử đều phát hiện được tuy nhiên đều không giết hay bắt giữ chúng mà chỉ thả chúng đi. Đến ngày giỗ cha, Quân Tử đồ xôi luộc gà, thắp hương đèn sửa soạn vào làm lễ, thì một chú ruồi đánh hơi bay đến đậu vào cỗ xôi đánh chén thỏa thích. Nhưng Quân Tử đã nhanh tay quơ được. Bị kẹt chặt, ruồi ta hết đường giãy giụa, chắc là khó thoát cái chết. Nhưng rồi ruồi cũng may mắn được thả ra. Tiếng đồn về lòng nhân đức của Quân Tử vang khắp nơi. Buổi ấy nhà vua đang muốn kén chọn người tài đức để gả công chúa. Nghe tin đồn về Quân Tử, vua bèn sai quan quân đi triệu về kinh. Nhưng khi gặp mặt Quân Tử, thấy anh ăn nói không được lễ phép thì vua không được hài lòng. Để tiện từ chối, vua bèn đưa ra ba thử thách lớn cho Quân Tử , Quân Tử tin rằng mình đã hết cơ hội làm phò mã . Thì những động vât ngày trước Quân Tử đã tha chết , lần lượt quay về giúp chàng . Nhờ có giúp đỡ của các loài vật mà mình đã từng cứu Quân Tử đã vượt qua ba thử thách của nhà vua một cách dễ dàng. Thấy cả ba lần anh đều thắng cuộc, vua đành vui lòng nhận anh là phò mã. Khi vua chết, vì không có con trai nối dõi nên Quân Tử được các quan đưa lên ngôi.
Câu chuyện ngợi ca lòng nhân hậu của Quân Tử biết yêu thương con người và cả động vật. Tiếng Lành đồn xa chàng không những được vua biết đến mà còn được triệu làm phò mã, sau này nhờ đức tính mà khi vua cha mất chàng còn được các quan đưa lên ngôi làm vua. Sống ở trên đời có lòng nhân hậu biết yêu thương mọi người xung quanh, biết yêu thương động vật dù chỉ là một con ruồi thì nhất định sẽ có một ngày chúng ta nhận được những hạnh phúc xứng đáng.
Chiếc áo tàng hình
Chiếc áo tàng hình câu chuyện kể về anh chài tên Triều vì lòng tốt nên anh đã được ông Tiên ban cho chiếc áo tàng hình, anh mang áo đi giúp đỡ mọi người nghèo khổ khắp nơi và cuối cùng nhờ giúp nhà vua nên anh đã được làm quan.
“Ngày xửa ngày xưa, ở vùng Cao Bằng có một chàng trai trẻ tuổi tên là Triều làm nghề chài lưới. Gia sản của Triều không có gì ngoài bộ đồ nghề làm ăn. Nhưng tính anh vốn hay thương người. Mỗi lần đánh được nhiều cá, anh thường đổi lấy gạo đem chu cấp cho những người túng thiếu mà anh gặp. Vì vậy người nghèo khổ trong vùng, ai người nào cũng đều yêu mến.
Ở Cao Bằng một thời gian, Triều lại dời sang đánh cá ở vùng Thái Nguyên. Ở đây, anh lại cứu giúp mọi người không tiếc sức. Một hôm, không đánh được mẻ cá nào, lúc về dọc đường, anh bỗng thấy một ông lão ăn mày đang nằm run rẩy dưới gốc cây. Động lòng thương, anh cởi ngay chiếc áo đang mặc đắp vào người ông cụ.
Bẵng đi một dạo, một hôm anh đang buông chài giữa sông, bỗng nghe trên núi cao có tiếng đàn văng vẳng. Anh dừng lại nghe một cách say sưa. Qua ngày hôm sau, anh lại được nghe tiếng đàn trên núi như hôm qua.
Hôm sau nữa, cũng từ trên ngọn núi cũ, tiếng đàn quen thuộc lại bay đến tai anh. Lấy làm lạ, anh vội thu xếp đồ nghề của mình, rồi tìm đường trèo lên núi, quyết tìm cho ra người gảy đàn.
Lần theo tiếng đàn, anh vạch cỏ rẽ lau tiến bước. Cuối cùng, đến một bãi rộng, anh thấy một cụ già đang ngồi trên phiến đá. Ông cụ mải mê gảy đàn không biết có người tới gần. Triều nhận ra khuôn mặt cụ già này rất giống với ông cụ nằm ở gốc cây hôm nọ. Chờ cho bản đàn dứt hẳn, anh đến trước mặt hỏi:
– Thưa cụ, cụ là ai mà ngồi đánh đàn ở đây?
Ông cụ ngước mắt nhìn anh một cách âu yếm, rồi chỉ vào một phiến đá trước mặt, bảo:
– Ta ngồi đợi con đây! Con trèo núi có mệt lắm không? Con hãy ngồi xuống đây nghỉ một tí.
Triều vừa đỡ chén nước ở tay ông cụ, đã nghe ông cụ hỏi:
– Con có nhớ ta không?
– Có ạ. Cụ có phải là người nằm ở gốc cây đa đầu làng hôm nọ không?
– Đúng vậy. Hôm nọ, con đành chịu mình trần để nhường áo cho ta. Tấm lòng này thật là ít có. Nay ta muốn đền cho con một chiếc áo khác.
Nói xong, ông cụ cởi chiếc áo đang mặc, quàng vào mình Triều rồi biến mất. Triều đứng thẫn người, ngỡ ngàng một lúc, mới biết thì ra ông cụ chính là một ông tiên hóa thành.
Từ ngày được áo của tiên cho, Triều mới biết đấy không phải là chiếc áo thường mà là một bảo vật, có phép làm cho người ta tàng hình. Mỗi lần mặc áo, không một ai nhận ra có anh ở trước mặt. Triều mừng quá, từ đấy anh đi chu du khắp nơi.
Anh thường mặc áo rồi tìm đến nhà bọn giàu có, đường hoàng đi vào khắp các phòng của chúng, lấy gạo tiền cho những người nghèo. Anh kín đáo trị tội những kẻ bất lương, bạc ác. Có những người vì quá cơ cực đang nằm lả bên vệ đường mà thở than thì bỗng thấy có những quan tiền trước mặt. Có những tên quan đang nọc người ra đánh giữa công đường thì chính hắn bỗng bị quất vào lưng đau quằn lên, nhưng ngoảnh lại thì vẫn không hề tìm thấy ai.
Nhiều sự việc giống nhau xảy ra, làm cho lời đồn đại lan khắp cả một vùng. Người lo, kẻ mừng, nhưng người nào cũng tin rằng Trời Phật đã có con mắt.
Cứ như thế Triều đi khắp nơi và giúp đỡ người cùng khổ. Một hôm, anh tìm đến đất kinh kì. Mặc áo vào, anh tha hồ đi đó đây cho thoả mắt. Hết vào nhà bọn quyền quý, anh lại vào cung cấm là nơi từ xưa không một người nào như anh dám bước chân đến. Thấy người nghèo khó nhan nhản khắp phố phường, anh lẻn vào kho tàng nhà vua lấy của ra phân phát cho họ. Vì thế kho công luôn luôn bị hao hụt, nhưng không một ai tìm ra thủ phạm cả.
Trong khi đó thì khắp kinh đô đồn ầm lên rằng có một vị tiên thường cứu giúp những người đói khổ và trừng trị những tên gian tà. Ở đâu tiên cũng có mặt, nhưng lại không xuất đầu lộ diện bao giờ.
Về phía Triều, anh vẫn ngày ngày làm công việc cứu giúp dân nghèo, coi đây là phận sự của mình, mà không hề băn khoăn đến chuyện báo đáp. Anh đã làm cho bọn giàu sang xiết bao sợ hãi, lo lắng khi thấy tiền của chúng tự nhiên không cánh mà bay, mặc dầu trong nhà ngoài ngõ đều có người canh gác cẩn mật.
Nhưng một hôm, sau khi trừng trị một tên quyền quý ỷ thế đánh người, anh vội lẻn ra khỏi nhà hắn ngay vì thấy kẻ hầu người hạ của hắn nghe tiếng động đổ xô tới rất đông. Giữa lúc vội vàng, anh vướng vào một chiếc gai tre ở bờ giậu làm cho chiếc áo toạc mất một miếng. Sợ rằng để vậy có thể bị lộ nên anh đã dùng một mụn giẻ vá lại. Sau đó, hàng ngày anh lại vào kho nhà vua tiếp tục phận sự của mình.
Từ ngày thấy ngân khố trong kho luôn bị hao hụt, nhà vua hết sức lo lắng. Vua hạ lệnh cho bọn quan coi kho phải tìm bắt cho kỳ được tên trộm bí mật, nếu không sẽ trị tội không tha. Bọn này nhiều phen cố sức rình mò nhưng chỉ hoài công vô ích. Tiền bạc trong kho cứ vơi dần mà chúng vẫn không tìm ra dấu vết gì đáng kể. Sau cùng, chúng sai thửa một kiểu bẫy lưới rất nhạy để chụp vào những nơi mà chúng nghi ngờ.
Hôm ấy, bọn quan coi quốc khố bỗng thấy có một con bươm bướm trắng ngoài cổng bay vào kho. Bướm bay đi dạo lại những đĩnh bạc trắng xoá, rồi bướm lại thủng thỉnh bay ra. Lập tức chúng chụp ngay lưới xuống chỗ có bướm. Và thế là Triều bị bắt. Chỉ vì miếng vải vá vào chiếc áo tàng hình khiến anh bị lộ. Bắt được Triều, bọn quan trông coi quốc khố mừng lắm, liền giải anh lên vua. Vua sai bỏ ngục để chờ xét xử.
Hồi ấy, có ông vua bên nước láng giềng từ lâu vẫn nuôi ngầm mưu mô đánh chiếm nước ta. Giữa lúc Triều bị hạ ngục, thì hàng vạn binh mã của nước láng giềng cũng đang ùn ùn kéo sang. Nhà vua đã cho quân đội ra chống giữ, nhưng đánh trận nào thua trận ấy, không sao ngăn cản được kẻ địch tiến như vũ bão.
Tình hình bỗng trở nên nguy ngập. Tin cấp báo từ biên giới một ngày đưa về không biết bao nhiêu chuyến ngựa trạm, làm cho kinh đô nháo nhác. Nghe được tin này, Triều liền bảo quan coi ngục tâu vua cho mình được đi dẹp giặc cứu nước. Nhà vua mừng quá, vội sai tháo xiềng cho anh, và gọi anh đến hỏi:
– Nhà ngươi cần bao nhiêu binh mã?
– Tâu bệ hạ, chỉ cần 1 mình thảo dân cũng có thể đuổi được giặc dữ. Chỉ xin bệ hạ ban cho thảo dân một thanh gươm.
Vua liền cởi gươm của mình trao cho Triều và phong anh là Hộ quốc tướng quân. Lệnh cho quân đội phải tuân theo lệnh anh.
Trước ngày lên đường, những người nghèo khổ nghe tin Triều được tha và phong tướng đi đánh giặc, đều tìm đến cảm ơn và tình nguyện đi theo. Triều cho sắp xếp thành đội ngũ và cùng kéo nhau lên đường.
Lúc đến vùng quân giặc đang chiếm đóng. Triều mặc ngay chiếc áo tàng hình vào người đi thẳng vào trại giặc. Chỉ một lát sau, anh chém chết tên chỉ huy toán quân tiên phong. Bọn giặc mất tướng như rắn không đầu, bỏ chạy tán loạn. Những người đi theo Triều chỉ việc chia nhau đón khắp các nẻo tóm cổ đưa về.
Đến những trại khác của giặc, Triều cũng làm như vậy. Không bao lâu cả đội tiên phong tinh nhuệ của giặc bị tiêu diệt và bị bắt sống, không sót một tên. Các đội quân khác còn lại kinh hoàng, cho là bên phía Đại Việt có vị thần thiêng trợ chiến nên bao nhiêu tướng tài của mình đều bị chém đầu.
Thấy quân sĩ ngã lòng, vua nước láng giềng đành hạ lệnh lui binh. Từ đấy biên giới lại vô sự. Khắp nơi ai nấy ca đều ngợi ca công lao của Triều.
Lúc Triều kéo quân khải hoàn, nhà vua vui mừng ra đón, hết lời khen ngợi anh. Vua phong cho Triều làm quan đại thần, chia đất đai và bổng lộc rất hậu, lại gả con gái cho anh làm vợ.
Từ đấy về sau, người ta quen gọi anh là Quan Triều. Ngày nay ở Cao Bằng và Thái Nguyên còn có đền thờ Quan Triều.”
Câu chuyện Đường lên trời
Đường lên trời là truyện cổ tích dân tộc Dao, phản ánh mong ước của người xưa, đó là ở hiền gặp lành, những người tốt bụng sẽ luôn được đền đáp xứng đáng.
“Ngày xưa, có một chàng trai tốt bụng, khỏe mạnh, làm nương giỏi, đi rừng kiếm củi nhanh 2 lần kẻ khác mà vẫn đói rách.
Anh quyết định đi tìm đường lên trời hỏi xem cớ sao mình phải khổ sở như vậy. Đi một mạch từ sáng sớm đến lúc mặt trời lặn, anh dừng chân nghỉ nhờ một nhà bên chân núi. Bà chủ nhà hỏi chuyện đầu đuôi, anh nói thực:
– Tôi lên trời hỏi xem tại sao những người khỏe mạnh, chăm làm như tôi mà vẫn khổ.
Bà chủ nhà liền nói:
– Nhân thể cháu làm ơn hỏi giúp hộ xem tại sao đứa con gái của bác đã năm tuổi rồi mà chưa biết nói. Hay là nó bị câm?
Chàng trai nhận lời. Sáng hôm sau, anh ra đi từ tinh mơ. Gặp một con sông lớn, chưa tìm được cách sang thì bỗng thấy một con thuồng luồng đen to nổi lên nhận đưa anh qua sông. Biết anh lên trời, thuồng luồng nhờ anh hỏi xem tại sao mười tám năm liền, nó chuyên cõng giúp người qua sông mà chưa hóa thành rồng được. Chàng trai lại vui vẻ nhận lời.
Anh băng rừng, vượt sối đi ngày đêm không biết mỏi. Một hôm, mệt quá, anh ngả lưng vào một gốc cây to, ngủ thiếp đi.
Bỗng xuất hiện một cụ già vẻ mặt hiền lành, tóc trắng như mây, da hồng như mặt trời buổi sáng. Cụ lay anh dậy, rồi ân cần hỏi chuyện. Anh lễ phép thưa:
– Thưa người già, con muốn tìm đường lên trời…
Anh chưa nói hết, ông cụ đã ngắt lời:
– Có việc gì hỏi trời, con cứ nói với ta. Nếu giúp được con, ta không ngại. Nhưng ta đang bận. Con chỉ được hỏi hai điều thôi.
Chàng trai nói:
– Thưa người già, một người đàn bà ở chân núi nọ có đứa con gái đã lên năm tuổi mà vẫn chưa biết nói, không hiểu vì sao?
Cụ già mỉm cười:
– Muốn cháu bé nói được, thì người mẹ phải đào lấy hũ vàng bên phải và hũ bạc bên trái quả núi cạnh nhà bà đi.
Chàng trai hỏi tiếp:
– Con qua sông lớn, có con thuồng luồng nhà hỏi tại sao mười tám năm liền nó chở giúp người qua sông mà chưa được hóa thành rồng.
– Con bảo nó nhả viên ngọc trong mồm ra thì mới bay lên được.
Chàng trai vui mừng quá, cúi sát đất cảm ơn ông cụ. Khi ngẩng lên định hỏi tiếp về số phận của mình thì cụ già đã biến mất. Anh rất lấy làm tiếc nhưng vẫn vui vẻ vì đã giúp được việc cho người khác.
Anh quay về.
Tới sông, thuồng luồng nổi lên đón anh. Anh truyền lại lời của cụ già. Thuồng luồng cảm ơn, cõng anh qua sông rồi nhả viên ngọc ra biếu anh. Đó là một viên ngọc quý, dùng làm thuốc chữa được mọi bệnh tật, mang trong người thì hết ốm đau.
Thuồng luồng hóa rồng, rồi bay về trời.
Đến nhà người mẹ có cô con gái câm hôm trước, anh thấy bà đang đợi anh ở cửa. Theo lời anh truyền lại, bà đào vàng bạc lên. Lạ thay, đứa bé gái bỗng cất tiếng gọi “Mẹ ơi!”.
Cảm ơn chàng trai tốt bụng, bà đưa biếu anh 1/2 số vàng bạc đào được.
Từ đó, chàng trai trở nên giàu có. Anh đem vàng bạc chia bớt cho những người nghèo khổ trong thôn xóm và dùng viên ngọc quý chữa bệnh cho mọi người.
Ai nấy đều yêu mến, kính trọng anh.”
Nàng tiên ốc
Câu chuyện Nàng Tiên Ốc kể về một bà lão nghèo khổ nhưng sống hiền lành và tốt bụng nên đã được Nàng tiên Ốc đến giúp đỡ bà. Qua câu chuyện răn dạy chúng ta sống ở đời phải biết thương yêu nhau, quý trọng nhau con người sẽ có hạnh phúc.
“Ngày xửa ngày xưa, ở một ngôi làng nhỏ nọ, có một bà lão tuổi cũng đã cao và vô cùng nghèo khó. Trông bà rất gầy gò, ốm yếu, nét mặt bà nhăn nhúm và đượm một vẻ buồn phiền. Bà sống 1 mình trong một chiếc lều nhỏ rách nát chỉ đủ che mưa che nắng chứ không che được những cơn gió rét của mùa đông. Bà không có con, không có cháu bên cạnh mình để đỡ đần và chăm sóc những lúc ốm đau.
Ngày qua ngày, bà phải ra ngoài đồng mò từng con cua, bắt từng con ốc nhỏ để đổi lấy tiền mua gạo sinh sống qua ngày.
Rồi một hôm, trong lúc đang bắt ốc, bà bắt được một con ốc rất đẹp. Con ốc có chiếc vỏ màu xanh ngọc bích, nó to hơn ngón cái bà một chút và tỏa ra những ánh sáng lấp lánh rất đẹp dưới ánh mặt trời. Bà vui mừng, nâng niu con ốc trên đôi bàn tay gầy guộc nhăn nheo và đầy vết chai sạm của mình. Bà thấy rất thương ốc nên bà không bán mà đem nó về nuôi trong một chiếc chum nước dựng ở sân nhà.
Ngày qua ngày, bà vẫn cặm cụi với công việc của mình. Bà vẫn ra đồng mò cua bắt ốc. Nhưng bà rất đỗi ngạc nhiên khi trở về nhà, tất cả sân nhà đã sạch sẽ tươm tất, vườn rau phía sau nhà thì đã sạch cỏ, cơm nước trên bàn đã nấu tinh tươm. Bà nghĩ mãi nhưng không thể nghĩ được ai đã giúp mình.
Hôm sau, bà vẫn ra đồng như thường lệ nhưng lần này giữa buổi bà quay trở về nhà. Về tới cổng, bà rón rén bước tới nép sau cánh cửa để xem ai giúp bà hôm qua. Bà thấy từ trong chiếc chum nước bước ra là một cô gái xinh đẹp, làn da cô trắng hồng, đôi mắt to đen như mắt bồ câu ẩn dưới hai hàng mi cong vút. Mái tóc cô đen một màu đen ánh và dài óng ả. Cô khoác trên mình một chiếc áo màu ngọc bích, dáng đi nhẹ nhàng uyển chuyển nhưng cô vẫn làm việc nhà một cách nhanh thoăn thoắt. Cô dọn dẹp nhà cửa, quét sân, nhổ cỏ sau vườn. Khi công việc vườn tược xong xuôi, cô lại đong gạo nấu cơm cho bà lão.
Đến lúc này thì bà lão đã nhận ra tất cả, thì ra đó là một nàng tiên ốc, bà nhẹ nhàng bước tới chiếc chum, lấy chiếc vỏ ốc rồi đập vỡ. Nghe thấy tiếng động, cô gái vội vàng quay lại chiếc chum để chui vào chiếc vỏ ốc nhưng đã quá muộn. Bà lão chạy tới ôm lấy cô và nói:
– Con gái! Hãy ở lại đây với mẹ!
Từ đó trở đi, bà lão và cô gái sống với nhau rất vui vẻ và hạnh phúc.
Từ đó cô trở thành đứa con yêu của bà. Hai mẹ con họ sông thật đầm ấm hạnh phúc.”
Có thể bạn thích: