Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là một bài thơ hay viết vào năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, được nhà thơ viết tại Thành phố Hồ Chí Minh in trong tập “Ánh trăng”. Tác phẩm là sự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính ấm áp với thiên nhiên đất nước bình dị và hiền hậu. Qua đó, tác giả muốn nhắn gửi tới người đọc hãy sống thủy chung, ân tình với quá khứ. Mời các bạn đọc tham khảo 1 số bài giải thích ý nghĩa nhan đề bài thơ trên mà TopChuan.com đã tổng hợp trong bài viết sau.
Bài tham khảo số 3
Trăng là nguồn cảm hứng bất tận của thi nhân xưa. Chúng ta từng bắt gặp ánh trăng sáng soi rọi tình yêu, nỗi nhớ quê hương trong “Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch hay ánh trăng huyền ảo, người bạn tri âm với người tù cộng sản qua bài “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh. Vẫn lựa chọn đề tài ánh trăng ngỡ như đã rất quen thuộc đó, nhà văn Nguyễn Duy đã sáng tạo và làm phong phú hơn cho vẻ đẹp và ý nghĩa của vầng trăng.
“Ánh trăng” là nhan đề bài thơ đồng thời cũng là hình ảnh xuyên suốt bài thơ và là đối tượng để nhà thơ Nguyễn Duy thể hiện những quan niệm, triết lý về cuộc đời. “Ánh trăng” xuất hiện với tư cách là hình ảnh thực, một hiện tượng, biểu tượng của thiên nhiên. Nó gắn liền với cái thi vị, lãng mạn, tươi mát. Trong bài thơ vầng trăng còn là người bạn ấm áp với những kỉ niệm tuổi thơ, đồng thời cũng gợi nhắc con người nhớ đến truyền thống “uống nước nhớ nguồn”.
Bài tham khảo số 8
Bài thơ Ánh trăng được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978, được in trong tập thơ cùng tên. Khi đặt cho tác phẩm của mình nhan đề là “Ánh trăng”, Nguyễn Duy muốn gửi gắm vào hình ảnh trăng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Tác giả đã nâng “ánh trăng” lên thành biểu tượng chứa đựng nhiều ý nghĩa. Trước hết, ánh trăng đại diện cho vẻ đẹp vĩnh hằng và bất tử của thiên nhiên. Hình ảnh ánh trăng đã vô cùng quen thuộc trong cuộc sống của con người. Tiếp đến, ánh trăng còn là người bạn đồng hành cùng tác giả trong những năm tháng tuổi thơ, khi sống hòa mình với thiên nhiên. Đặc biệt nhất, trăng đã trở thành người bạn tri kỷ, dõi theo từng bước đường chiến đấu của người chiến sĩ, ấm áp trong những năm tháng chiến tranh gian khổ. Cuối cùng trăng là đại diện cho quá khứ nghĩa tình, bao dung, đẹp đẽ. Ánh trăng mang đến cho ta một thông điệp, một bài học về lẽ sống thủy chung, ân tình với quá khứ. Đó là lời nhắc nhở con người ghi nhớ truyền thống “uống nước nhớ nguồn” – một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Bài tham khảo số 2
Ánh trăng không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu mà nó còn là một thứ ánh sáng diệu kỳ (đối với nhân vật trữ tình trong bài thơ, đó là nghĩa tình đẹp đẽ của quá khứ). Ánh sáng ấy có thể len lỏi vào những nơi khuất lấp trong tâm hồn con người để thức tỉnh họ nhận ra những điều sai trái, hướng con người ta đến với những lẽ sống cao đẹp – lẽ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ. Đó chính là ý nghĩa của bài thơ được Nguyễn Duy gửi gắm trong qua nhan đề “Ánh trăng”.
Bài tham khảo số 7
Nguyễn Duy đặt cho bài thơ của mình nhan đề “Ánh trăng” ấn chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, ánh trăng là hình tượng trung tâm, xuyên suốt toàn tác phẩm. Trăng trong thơ ca đã không còn là một hình ảnh mới mẻ. Từ xưa cho đến nay, trăng xuất hiện nhiều trong các thi phẩm và mang một dụng ý nghệ thuật khác nhau mà các nhà thơ thể hiện.
Còn trong bài thơ này, ánh trăng, đầu tiên mang ý nghĩa tả thực, đó là trăng của thiên nhiên. Sau đó, nó còn mang ý nghĩa biểu tượng. Ánh trăng ở đây đã trở thành người bạn tri kỷ của những người chiến sĩ trong những năm chiến tranh. Đồng thời qua hình ảnh này, Nguyễn Duy cũng muốn nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính ấm áp với thiên nhiên, đất nước bình dị và hiền hậu. Hay đó cũng chính là lời nhắc nhở về truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay.
Bài tham khảo số 5
Ánh trăng không chỉ là hình ảnh của đất trời thiên nhiên. Ánh sáng ấy có thể len lỏi vào những nơi khuất lấp trong tâm hồn con người để thức tỉnh họ nhận ra những điều sai trái, hướng con người ta đến với những giá trị đích thực của cuộc sống.
Nhan đề bài thơ mang ý nghĩa biểu tượng – “ánh trăng” như ánh sáng của hàng nghìn nến đã thắp sáng lên một góc tối của con người, thức tỉnh sự ngủ quên của con người về nghĩa tình thuỷ chung với quá khứ, với những năm tháng gian lao nhưng rất hào hùng của cuộc đời người lính.
Bài thơ nêu lên vấn đề của mọi người, mọi thời, đó là lời tự nhắc nhở, thấm thía về thái độ tình cảm đối với quá khứ gian lao, với thiên nhiên đất nước bình dị, hiện hậu đối với người đã khuất và đối với chính mình.
Bài tham khảo số 4
Trong thi ca, vầng trăng được xem là biểu tượng của cái đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, vũ trụ. Nó là khát vọng tình yêu, hòa bình và cuộc sống trường cửu. Nguyễn Duy đã lấy biểu tượng đẹp đẽ ấy làm nhan đề cho bài thơ là hoàn toàn có dụng ý nghệ thuật đặc sắc, đem đến cho người đọc những cảm xúc mới mẻ, thật đáng trân trọng.
Trước hết, ánh trăng trong bài thơ cùng tên của Nguyên Duy là hình ảnh đẹp. Đó là tất cả những gì gọi là thi vị, gần gũi, hồn nhiên, tươi mát của thiên nhiên. Ánh trăng soi rọi những tháng ngày thơ ấu hồn nhiên, bình dị và khát khao. Ánh trăng ấy theo con người ra chiến trường, soi rọi bước chân hành quân, động viên, an ủi con người vượt qua khó khăn, thử thách quyết chiến, quyết thắng kẻ thù. Trăng là người đồng đội thân thiết, là đồng chí kiên trung của người lính.
Chưa bao giờ vầng trăng đòi hỏi con người đáp trả điều gì. Nó chỉ biết cho đi thứ ánh sáng kì diệu và chẳng bao giờ than vãn, đố kỵ hay hờn ghét. Trăng hồn nhiên, vô tư như đất trời, cỏ cây. Bởi những phẩm chất cao quý ấy, con người “ngỡ” rằng “không bao giờ quên” “cái vầng trăng tình nghĩa” ấy. Hơn cả một điều tâm niệm, đó là một lời thề thủy chung của người lính đối với vầng trăng.
Nhưng nhan đề “ánh trăng” còn thực sự sâu sắc, ý nghĩa bởi vầng trăng ấy còn là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình – ký ức gắn với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cam go mà hào hùng. Cuộc sống hoà bình với “ánh điện cửa gương”, “phòng buyn-đinh” tiện nghi, thuận lợi đã khiến cho nhà thơ bao lần nhìn ánh trăng như một “người dưng qua đường”. Con người từng một thời chiến đấu, thời ngang dọc trên nhiều chiến trường đã có lúc như lãng quên quá khứ. Để rồi phải đến hôm nay, khi bất ngờ đối diện với vầng trăng, con người nhận ra sự bạc bẽo, vô tâm của mình, lòng tràn đầy ân hận, hối tiếc. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính.
Như vậy, vầng trăng với ánh sáng kì diệu của nó tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu. Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người. Ánh trăng lặng lẽ tỏa sáng trong bài thơ hay lặng lẽ như lời nhắc nhở giản dị mà sâu lắng, không được phép lãng quên quá khứ, có những thử thách, những hy sinh, những tổn thất thời đánh Mỹ ác hệ mới có cuộc sống hòa bình ngày hôm nay. Chính những lý do đó, Nguyễn Duy đã lấy hình ảnh này làm nhan đề cho bài thơ là một lựa chọn đúng đắn, hết sức thi vị.
Bài tham khảo số 1
“Ánh trăng” chính là linh hồn của toàn bài thơ. Nó không chỉ là người bạn tri kỷ của người lính vô tình mà còn là chiếc gương soi mặt trái của một con người. Ánh trăng luôn luôn tròn đầy, luôn luôn dõi theo từng bước đường đời của con người mà con người lại nỡ lòng quên đi ánh trăng tình nghĩa. Ánh trăng còn là quê hương gần gũi, vị tha, sẵn sàng tha thứ lỗi lầm một khi con người biết ăn năn, nhìn nhận ra lỗi lầm của mình.
Ánh trăng thế đấy, vì vậy bất cứ nhà thơ nào mà chẳng yêu trăng. Trăng là cánh chim chắp cánh cho những hồn thơ bay bổng. Chúng ta đã từng biết đến vầng trăng nhớ cố hương của tiên thi Lý Bạch, từng rung cảm trước vẻ đẹp của ánh trăng – người bạn tri âm với người tù cộng sản Hồ Chí Minh (“Vọng nguyệt” – “Nhật kí trong tù”). Và với bài thơ “Ánh trăng”, Nguyễn Duy đã làm phong phú và ấm no thêm vẽ đẹp cũng như ý nghĩa của vầng trăng đã quen thuộc từ ngàn đời.
Trước hết, “ánh trăng” của Nguyễn Duy là hình ảnh đẹp của thiên nhiên với tất cả những gì là thi vị, gần gũi, hồn nhiên, tươi mát. Trong hai khổ thơ đầu, vầng trăng hiện ra trong không gian của ruộng đồng, sông biển, núi rừng. Đó là vầng trăng của “hồi nhỏ sống với đồng”. Ánh trăng gắn với tuổi ấu thơ của tác giả. Vầng trăng ấy hồn nhiên như cuộc sống, như đất trời.
Nhưng nếu chỉ có vậy, ánh trăng của Nguyễn Duy sẽ lẫn với vô vàn ánh trăng khác trong thơ ca hiện đại. Cũng giống như trăng của người bạn tù, vầng trăng của Nguyễn Duy đã thành “tri kỉ” – người bạn tình nghĩa. Ánh trăng thời chiến như chia sẻ những thử thách của chiến tranh, như cùng nhà thơ và đồng đội trải qua những kỉ niệm của thời “ở rừng”. Vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa ấy: dấu ấn của một thời gian khó: “ngỡ không bao giờ quên”.
Nhan đề “ánh trăng” còn thực sự sâu sắc, ý nghĩa bởi vầng trăng ấy còn là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình – ký ức gắn với cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước cam go mà hào hùng. Cuộc sống hoà bình “ánh điện cửa gương, buyn-đinh” đã khiến cho nhà thơ nhìn ánh trăng như một “người dưng qua đường”. Con người từng một thời chiến đấu, từng ngang dọc trên nhiều chiến trường đã có lúc như lãng quên quá khứ. Nhưng rồi thình lình đèn điện tắt, thì “đột ngột vầng trăng tròn” xuất hiện. Vầng trăng ấy đã đánh thức kí ức của tác giả, của thế hệ trẻ Việt Nam trong những ngày đánh Mỹ.
Ánh trăng lặng lẽ tỏa sáng trong bài thơ hay lặng lẽ như lời nhắc nhở giản dị mà sâu lắng: không được phép lãng quên quá khứ, có những thử thách, những hi sinh, những tổn thất thời đánh Mỹ ác liệt mới có cuộc sống hoà bình ngày hôm nay.
Có thể bạn thích: