Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Thắng sinh ngày 15 tháng hai năm 1835 tại quê ngoại Văn Khế, Hoàng Xá, Ý Yên, Nam Định, mất ngày 5 tháng hai năm 1909 tại Yên Đổ. Cha ông là Nguyễn Tông Khởi thường gọi là cụ Mền Khởi. Mẹ là Trần Thị Thoan nguyên là con của Trần Công Trạc, từng đỗ tú tài thời Lê Mạt. Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng nổi tiếng thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống, gắn bó với thiên nhiên. Ông là một nghệ sĩ đa tài với nhiều tác phẩm hay và ý nghĩa. Và dưới đây là những tác phẩm hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông.
Bài thơ: Cuốc kêu cảm hứng
Tác giả: Nguyễn Khuyến
Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
Bạn đến chơi nhà
Tác giả: Nguyễn Khuyến
Đã bấy lâu nay bác tới nhà.
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.
Bài thơ: Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư
Tác giả: Nguyễn Khuyến
Dĩ hĩ Dương đại niên,
Vân thụ tâm huyền huyền.
Hồi ức đăng khoa hậu,
Dữ quân thần tịch liên.
Tương kính thả tương ái,
Tao phùng như túc duyên.
Hữu thời xuất kinh lộ,
Không san văn lạc tuyền.
Hữu thời thượng cao các,
Ca nhi minh tố huyền.
Hữu thời đối quân ẩm,
Đại bạch phù bát duyên.
Hữu thời độc ác luận văn,
Đông bích la giản biên.
Ách vận phùng dương cửu,
Đấu thăng phi tham thiên.
Dư lão công diệc lão,
Giải tổ quy điền viên.
Vãng lai bất sổ đắc,
Nhất ngộ tam niên tiền.
Chấp thủ vấn suy kiện,
Ngữ ngôn thù vị khiên.
Công niên thiểu dư tuế,
Dư bệnh nghi công tiên.
Hốt văn công phó chí,
Kinh khởi hoàng hoàng nhiên.
Dư khởi bất yếm thế,
Nhi công tranh thượng tiên.
Hữu tửu vi thuỳ mãi,
Bất mãi phi vô tiền.
Hữu thi vi thuỳ tả,
Bất tả vi vô tiên.
Trần Phồn tháp bất hạ,
Bá Nha cầm diệc nhiên.
Công ký khí dư khứ,
Dư diệc bất công liên.
Lão nhân khốc vô lệ,
Hà tất cưỡng nhi liên.
Bài thơ: Câu cá mùa thu
Tác giả: Nguyễn Khuyến
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ấp ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Chừa rượu
Tác giả: Nguyễn Khuyến
Những lúc say sưa cũng muốn chừa,
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.
Hay ưa nên nỗi không chừa được.
Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.
Bài thơ: Thu Ẩm
Tác giả: Nguyễn Khuyến
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy.
Độ năm tía chén đã say nhè.
Bài thơ: Anh giả điếc
Tác giả: Nguyễn Khuyến
Trong thiên hạ có anh giả điếc,
Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
Chẳng ngờ đâu “sáng tai họ, điếc tai cày”,
Lối điếc đó sau này em muốn học.
Toạ trung đàm tiếu, nhân như mộc
Dạ lí phan viên, nhĩ tự hầu.
Khi vườn sau, khi ao trước; khi điếu thuốc, khi miếng trầu.
Khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu;
Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc
Điếc như thế ai không muốn điếc?
Điếc như anh dễ A dua ru mà!
Hỏi anh, anh cứ ậm à.
Có thể bạn thích: