Thiền Sư Huyền Quang (1254-1334) tổ thứ tía của Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, được kể như một nhà thi sĩ lớn trong nền thi ca Việt Nam và Phật Giáo, những bài xích thơ … xem thêm…của ông phảng phất hương vị thanh thoát, chìm lặng trong vô cùng. Dưới đây bài xích thơ hay nhất của nhà thơ Huyền Quang.
Đề Đạm Thuỷ tự
Đề Đạm Thuỷ tự
Đạm Thuỷ đình biên dã thảo đa,
Không sơn vũ tễ tịch dương tà.
Nhân qua liễn lộ đầu thiền thất,
Ủng phạm xao chung giản lạc hoa.
Dịch nghĩa
Bên đình Đạm Thuỷ nhiều cỏ nội,
Núi quang, mưa tạnh, bóng chiều chênh chếch.
Nhân qua con đường vua đi mà vào am thiền,
Giúp nhà chùa thỉnh chuông và nhặt hoa rơi.
Nguồn: Thơ văn Lý Trần (tập II), NXB Khoa học xã hội, 1988
Phiếm chu (Chèo thuyền)
Phiếm chu
Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang,
Sơn thanh thuỷ lục hựu thu quang.
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
Nguyệt lạc tía tâm giang mãn sương.
Dịch nghĩa
Chiếc thuyền con lướt gió lênh đênh trên dòng sông bát ngát,
Non xanh, nước biếc, lại thêm ánh nắng mùa thu.
Vài tiếng sáo làng chài ngoài khóm hoa lau,
Trăng rơi đáy sóng, mặt sông đầy sương.
Nguồn: Thơ văn Lý Trần (tập II), NXB Khoa học xã hội, 1988
Đề Động Hiên đàn việt giả sơn
Đề Động Hiên đàn việt giả sơn
Hoa mộc di duyên chủng tác sơn,
Lung yên trạo nguyệt, lạc hoa hàn.
Tùng tư niệm lự đô vô tục,
Doanh đắc thanh phong nhất chẩm an.
Dịch nghĩa
Trồng hoa và cây quấn quýt làm thành núi non bộ,
Khói toả trăng lồng, hoa rơi lạnh lẽo.
Từ nay những mối suy nghĩ không còn vương tục luỵ,
Giành được giấc ngủ êm đềm trước luồng gió trong mát.
Nguồn: Thơ văn Lý Trần (tập II), NXB Khoa học xã hội, 1988
Diên Hựu tự
Diên Hựu tự
Thượng phương du dạ nhất chung lan,
Nguyệt sắc như tía phong thụ đan.
Si vẫn đảo miên phương kính lãng,
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn.
Vạn duyên bất nhiễu thành già tục,
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan.
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.
Dịch nghĩa
Đêm thu, trên chùa một tiếng chuông đã tàn,
Ánh trăng như sóng, cây phong lá đỏ.
Bóng “xi vẫn” nằm ngủ ngược dưới mặt hồ như tấm gương vuông lạnh giá,
Hai ngọn tháp đứng song song như ngón tay ngọc rét buốt.
Muôn vàn nhân duyên không vương vấn là bức thành che niềm tục,
Không lo lắng chút gì nên tầm mắt mở rộng.
Hiểu thấu ý nghĩa của thuyết phải trái đều như nhau,
Thì xem cung ma có khác gì nước Phật!
Diên Hựu: tức chùa Một Cột, được vua Lý Thái Tông cho dựng năm Kỷ Dậu (1049), nay vẫn còn ở Hà Nội sau nhiều lần trùng tu.
Nguồn: Thơ văn Lý Trần (tập II), NXB Khoa học xã hội, 1988
Tặng sĩ đồ tử đệ
Tặng sĩ đồ tử đệ
Phú quí phù vân trì vị đáo,
Quang âm lưu thuỷ cấp tương thôi.
Hà như tiểu dấu lâm tuyền hạ,
Nhất tháp tùng phong, trà nhất bôi.
Dịch nghĩa
Giàu sang như mây nổi, chậm chạp chưa đến,
Quang âm như nước chảy, ăn năn hả giục nhau qua.
Sao bằng về dấu nơi rừng suối,
Một sập gió thông, một chén trà.
Nguồn: Thơ văn Lý Trần (tập II), NXB Khoa học xã hội, 1988
Ai phù lỗ (Thương tên giặc bị bắt)
Có thể bạn thích: