Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, có rất nhiều bài thơ hay đã ra đời để khích lệ tinh thần các chiến sĩ cách mạng cũng như tố cáo tội ác của bọn thực dân. … xem thêm…Mỗi trang thơ là một câu chuyện xúc động và chân thật của nhân dân ta trong những ngày gian khổ. Hãy cùng TopChuan.com điểm qua một vài áng thơ nổi tiếng nhất trong thời kì này nhé.
Đi tìm cách mạng – Nguyễn Đình Thi
Bài thơ Đi tìm cách mạng của nhà thơ Nguyễn Đình Thi là những lời tố cáo đanh thép về tội ác của thực dân Pháp và Nhật gây nên cho người dân và đất nước Việt Nam ta thời ấy: “Xung quanh làng xóm lầm than”, ” Đi phu, đi lính, đắp đường”, “Địa chủ có trăm cái vòi/ Hút vào xương tủy, mồ hôi dân mình”… Đi tìm cách mạng là tiếng lòng xé gan xé thịt của người dân thời ấy và đồng thời thể hiện sự sáng suốt của cách mạng Việt Minh, sự kiên cường bất khuất của những thế hệ đã anh dũng hy sinh, sẵn sàng hiến dâng cho đất nước. Bài thơ là lời tiếp sức, nhắc nhở cho những thế hệ mai sau và cũng là sợi dây liên kết giữa quá khứ và hiện tại, như một minh chứng trường tồn cho những gian khổ mà dân tộc ta đã chịu đựng thời ấy.
Bài thơ Đi tìm cách mạng:
“Xung quanh làng xóm lầm than
Thóc Tây, đay Nhật muôn vàn thảm thương
Đi phu, đi lính, đắp đường
Người nghèo một cổ mấy tròng thắt ngang
Mùa mùa lúa vẫn chín vàng
Lúa đi đâu mất, ta làm cho ai?
Địa chủ nó có trăm vòi
Hút vào xương tuỷ, mồ hôi dân mình
Tiếng đồn trên núi rừng xanh
Có quân Cách mạng Việt Minh phất cờ
Sao vàng soi lối tự do
Dân nghèo theo hết vỡ bờ nổi lên
Chiến khu ta ở Tây Nguyên
Quân đang vượt núi xuống miền trung du
Mặt trời đang xé sương mù
Dân mình đang phá ngục tù nghìn năm
Truyền đơn rải ở chợ làng
Cờ đỏ mọc giữa đường quan ban ngày
Đồng quê như có lửa bay
Nhà giàu bàn tán, dân cày truyền tin
Quyết lòng dấn bước đi tìm
Một đêm nổi gió băng mình thoát thân.”
Lá ngụy trang – Chính Hữu
Lá ngụy trang là một bài thơ tuy đơn giản, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa nhiều xúc cảm sâu sắc của nhà thơ Chính Hữu về quê hương, đất nước và người lính. Chiếc lá với màu xanh biếc như ẩn dụ cho tuổi trẻ, hy vọng, ước mơ của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp và những đôi vai trẻ tuổi ấy lại mang trên mình sức nặng của quê hương. Đặc biệt, khác với những bài thơ trước đó, Lá ngụy trang sử dụng đại từ nhân xưng “ta” để tôn lên cái tôi cá nhân lãng mạn nhưng đồng thời vẫn vô cùng hào hùng, bi tráng.
Bài thơ Lá ngụy trang:
“Mười năm đi mải miết
Mang quê mình xanh biếc trên lưng.
Khi ta hành quân đã khuất,
Lá ngụy trang còn đọng tiếng chim rừng
Tha thiết.
Cây mọc trăm miền gửi lá theo ta
Gian khổ đêm ngày chiến dịch,
Vẫn nghe rì rào thôn xóm ta qua
Nghe núi nghe sông trong cành lá hát.”
Màu tím hoa sim – Hữu Loan
Màu tím hoa sim là một vần thơ buồn về kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ được nhà thơ Hữu Loan viết tặng người vợ quá cố của mình là bà Lê Đỗ Thị Ninh vào năm 1949. Xuyên suốt tác phẩm là câu chuyện của một đôi vợ chồng trẻ cưới nhau đương lúc chiến tranh chống Pháp. Người trai ra trận trở về thì nghe tin người vợ hiền ở hậu phương đã ra đi. Bài thơ khắc hoạ một nỗi đau dai dẳng về sự mất mát khôn nguôi mà chiến tranh mang lại. Đồng thời, từng câu từng chữ trong tác phẩm cũng thể hiện nét nghĩa tình sắt son mà nhà thơ Hữu Loan dành cho vợ mình. Hình ảnh màu tím hoa sim vừa tượng trưng cho màu áo cưới lại vừa ghi dấu cho tình cảm sâu đậm của nhà thơ. Chính vì thế không ít người cho rằng đây là bài thơ tình hay nhất thế kỉ 20.
Bài thơ Màu tím hoa sim:
“Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu…”
Việt Bắc – Tố Hữu
Bài thơ Việt Bắc được trích trong tập thơ cùng tên được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10-1954 nhân dịp cán bộ cách mạng rời Việt Bắc trở về xuôi. Bài thơ được viết ở thể thơ lục bát, mượn cách xưng hô dân gian mình – ta giúp tác giả dễ dàng bộc lộ cảm xúc của mình. Bài thơ là lời tâm tình của tác giả về những chuỗi ngày sinh sống và làm việc tại Việt Bắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Gắn bó như máu thịt tại vùng đất này nên đến lúc chia tay, tâm trạng của Tố Hữu và các cán bộ về xuôi rất xúc động, bùi ngùi nhớ về mười lăm năm đã qua. Tóm lại, Việt Bắc là một áng thơ hay trong thời kì kháng chiến mà các bạn nên đọc và cảm nhận.
Trích đoạn Việt Bắc
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
– Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
– Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào…”
Đồng Chí – Chính Hữu
“Đồng chí” là một trong những áng thơ tiêu biểu nhất trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ ra đời vào năm 1948 và được in trong tập “Đầu súng trăng treo” – tập thơ duy nhất của nhà thơ Chính Hữu. Bức chân dung những người lính được tác giả miêu tả qua những câu thơ hết sức chân thực và xúc động, lột tả được hết những gian lao, khắc khổ mà những người lính phải trải qua trong thời kì kháng chiến. Hơn thế nữa, bài thơ ca ngợi vẻ đẹp chung chí hướng của những người đồng đội, đồng chí vì cùng chung lý tưởng mà gặp gỡ, quen biết và đồng hành cùng nhau. Bài thơ “Đồng chí” với ngôn từ giản dị đã khắc hoạ nên hình tượng những người nông dân khi hoá thân thành các chiến sĩ anh dũng, chạm vào trái tim của người đọc sau này.
Bài thơ Đồng Chí:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.“
Có thể bạn thích: