Ung thư đại tràng hay còn gọi là ung thư ruột già là một loại ung thư thường gặp ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Ung thư đại tràng là một trong các những loại ung thư đường tiêu hóa có tiên lượng tốt trong trường hợp phát hiện khi bệnh còn ở giai đoạn sớm hoặc các tổn thương tiền ung thư. Nếu phát hiện muộn thì khả năng điều trị rất ít hiệu quả. Để giúp bạn hiểu rõ về căn bệnh này cũng như các phòng tránh thì trong bài viết hôm nay TopChuan.com sẽ cùng bạn tìm hiểu một số điều cần biết về ung thư đại tràng nhé.
Nguyên nhân bệnh Ung thư đại tràng
Trong hầu hết các trường hợp, nguyên nhân gây ung thư đại tràng thường không rõ ràng. Các nhà nghiên cứu chỉ biết rằng, ung thư đại tràng xảy ra khi các tế bào trong đại tràng thay đổi, phát triển và phân chia mất kiểm soát. Nghiên cứu cho thấy những người có các yếu tố sau đây dễ bị mắc bệnh ung thư đại – trực tràng hơn những người không có các yếu tố này.
- Bị viêm loét đại trực tràng nhưng không chữa trị triệt để, chỉ chữa theo triệu chứng khiến các vết viêm loét ngày càng lan rộng.
- Có ung thư đại – trực tràng trước đó: Mặc dù đã cắt bỏ hết đoạn ruột bị ung thư nhưng dễ bị ung thư ở vị trí khác trên đại tràng.
- Có tiền sử bị pôlíp đại – trực tràng: Vài loại pôlíp làm tăng nguy cơ bị ung thư đại – trực tràng, nhất là pôlíp có kích thước lớn hoặc có nhiều pôlíp.
- Có tiền sử mắc bệnh đường ruột: Hai bệnh Viêm loét đại tràng và bệnh Crohn làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư đại – trực tràng. Trong các bệnh này, đại tràng thường bị viêm kéo dài và niêm mạc có thể bị loét. Những bệnh nhân này cần được làm xét nghiệm theo dõi nhiều lần.
- Tiền sử gia đình: Có người thân trong gia đình mắc bệnh ung thư đại – trực tràng, nhất là thân nhân có quan hệ huyết thống gần thì nguy cơ mắc bệnh tăng cao, nhất là khi ung thư xảy ra trước tuổi 60.
- Khẩu phần ăn: Thức ăn chứa nhiều mỡ, nhất là mỡ động vật làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư đại – trực tràng.
- Thiếu vận động: Người ngồi một chỗ dễ bị mắc bệnh ung thư đại – trực tràng.
- Béo phì: Làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư đại – trực tràng.
- Hút thuốc lá: Hầu như người nào cũng biết hút thuốc lá dễ bị ung thư phổi. Nghiên cứu gần đây cho thấy người hút thuốc lá còn chết vì ung thư đại – trực tràng nhiều hơn người không hút 30-40%. Ngoài ra hút thuốc lá còn làm tăng nguy cơ mắc nhiều loại ung thư khác nữa.
- Uống rượu: Uống rượu nhiều cũng làm tăng nguy cơ bị ung thư đại – trực tràng.
Bệnh học ung thư đại tràng
Ung thư đại tràng là một bệnh lý hay gặp ở Việt Nam, đứng hàng thứ hai sau ung thư dạ dày trong ung thư đường tiêu hoá. Theo Nguyễn Bá Đức trong năm 1988 ở Hà Nội đã phát hiện 1482 ung thư các loại, trong đó ung thư đại tràng và trực tràng đứng hàng thứ 5 (5,5%) sau ung thư phế quản, dạ dày, gan và ung thư vú. ở nữ giới ung thư đại trực tràng đứng hàng thứ 3 (3,1%) sau ung thư vú và ung thư dạ dày. Ở nam giới nó đứng hàng thứ 5 (4,7%) sau ung thư phổi, dạ dày, gan, vòm họng và ung thư máu.
Ung thư đại tràng có thể gặp ở bất cứ vị trí nào của đại tràng: đại tràng sigma, đại tràng xuống, đại tràng ngang, đại tràng lên và manh tràng. Bệnh phát triển với 4 giai đoạn chính, được phân loại dựa trên cấu trúc của đại tràng và cách tế bào lây lan từ đại tràng tới các bộ phận khác của cơ thể. Giai đoạn ung thư càng muộn thì tiên lượng sống càng giảm. Ung thư giai đoạn đầu thường phát triển chậm hơn và có tiên lượng tốt hơn.
- Giai đoạn I: Đây là giai đoạn sớm nhất của ung thư đại tràng, được gọi là ung thư biểu mô tại chỗ, lúc này ung thư vẫn chỉ giới hạn trong đại tràng. Trong giai đoạn này, các tế bào ung thư chỉ có ở niêm mạc, phát triển trong các lớp của đại tràng.
- Giai đoạn II: Trong giai đoạn này, các tế bào ung thư bắt đầu lan ra và xâm lấn tới các khu vực khác trong đại tràng, nhưng chưa di căn tới các cơ quan khác của cơ thể. Giai đoạn này được phân loại thành các giai đoạn nhỏ IIa, IIb và IIc, dựa trên sự lan xa của các tế bào ung thư.
- Giai đoạn III: Trong giai đoạn này, các tế bào ung thư bắt đầu lan đến các hạch bạch huyết lân cận. Giai đoạn này được chia thành IIIa, IIIb và IIIc dựa trên số lượng hạch bạch huyết bị ảnh hưởng bởi ung thư.
- Giai đoạn IV: Đây là ung thư đại tràng giai đoạn cuối, các tế bào ung thư di căn tới các cơ quan khác của cơ thể.
- Giai đoạn IVa: Ung thư đã phát triển qua tất cả các lớp của thành ruột và xâm lấn sang các hạch bạch huyết vùng, đồng thời di căn đến một trong các những phần xa của cơ thể, chẳng hạn như gan hoặc phổi.
- Giai đoạn IVb: Ung thư đã di căn ra hơn một trong các những phần xa của cơ thể
Biến chứng của Ung thư đại tràng
Ung thư đại tràng thường gây nên những biến chứng như tắc ruột, thủng ruột, áp xe quanh khối u và di căn.
- Tắc ruột: theo các nhà khoa học, có khoảng 30% các trường hợp ung thư đại tràng phải phẫu thuật cấp cứu do biến chứng tắc ruột. Hầu hết các trường hợp tắc ruột là do khối u làm tắc lòng đại tràng. Trong một số trường hợp, do thành đại tràng có khối u bị viêm, phù nề nên lòng đại tràng vốn đã hẹp lại càng hẹp hơn. Một nguyên nhân khác làm tắc ruột là do lồng ruột, thường gặp khối u ở manh tràng lồng vào đại tràng lên. Tắc ruột đại tràng khác với tắc ruột ở ruột non, tình trạng rối loạn nước và chất điện giải xuất hiện rất sớm trong tắc ruột non nhưng lại muộn hơn khi tắc ruột ở đại tràng. Vì vậy triệu chứng toàn thân cũng khác, ở ruột non chỉ sau 2 ngày bị tắc ruột thì tình trạng toàn thân đã suy sụp nhiều, trái lại ở đại tràng sau 3 – 4 ngày bị tắc ruột thì tình trạng toàn thân vẫn còn tốt; do đó nếu ruột non bị tắc cần phải phẫu thuật ngay, còn đại tràng bị tắc có thể chờ đợi được.
- Thủng ruột: biến chứng thủng ruột thường gặp ở bệnh nhân đến bệnh viện với hội chứng viêm phúc mạc hoặc tắc ruột. Tỉ lệ người bệnh bị tử vong sau phẫu thuật chiếm tỉ lệ rất cao, bệnh nhân bị tử vong không phải do phẫu thuật mà vì nhiễm khuẩn nặng. Lỗ thủng ruột có thể ở ngay khối u hoặc ở ngoài khối u, ở gần hoặc ở xa khối u; thực tế có thể gặp trường hợp tắc ruột ở đại tràng xích ma nhưng lại bị thủng ruột ở manh tràng. Việc quyết định xử trí tùy theo vị trí của lỗ thủng và tình trạng toàn thân của bệnh nhân.
- Áp-xe quanh khối u: biến chứng này không phải là hiếm gặp nhưng khó chẩn đoán, dễ nhầm lẫn với áp-xe ruột thừa, viêm túi mật cấp tính, áp-xe phần phụ… Dù áp-xe quanh khối u ở bên phải hay bên trái đều cần phải chích áp-xe, khi mủ đã bớt nhiều trong khoảng từ 7 – 10 ngày sau, phải mở bụng ra kiểm tra khối u và các cơ quan trong hố bụng; tùy tình trạng bệnh nhân và vị trí của khối u để xử trí.
- Di căn: xuất hiện muộn ở niêm mạc thành bụng, ở gan hoặc ở buồng trứng, các hạch… Thông thường trong khi phẫu thuật mới phát hiện thấy hiện tượng di căn. Sau phẫu thuật có thể có di căn ở phổi, phát hiện bằng cách chụp hình phổi. Cần theo dõi sự tái phát hoặc hiện tượng di căn sau phẫu thuật bằng xét nghiệm định lượng CEA (carcinoma embryonic antigen) là kháng nguyên phôi ung thư biểu mô..
Phòng ngừa bệnh Ung thư đại tràng
Ung thư đại trực tràng là bệnh ung thư phổ biến thứ 3 trên thế giới, bệnh dễ gây tử vong nếu phát hiện muộn. Tuy nhiên, ung thư đại trực tràng vẫn có thể phòng tránh được. Dưới đây là 8 cách giúp phòng bệnh ung thư đại trực tràng:
- Duy trì một trọng lượng khỏe mạnh: Thừa cân, béo phì làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng và 11 loại ung thư khác nhau. Do vậy, duy trì trọng lượng cơ thể hợp lý cũng là một biện pháp phòng chống ung thư đại trực tràng.
- Hạn chế thịt đỏ, đặc biệt là thịt đã chế biến: Ăn quá nhiều thịt đỏ – như bít tết, hamburger và thịt lợn – làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng. Và các loại thịt đã chế biến như thịt xông khói, xúc xích và hun khói tăng nguy cơ mắc bệnh cao hơn.
- Không hút thuốc lá: Hút thuốc lá là nguyên nhân chính của ít nhất 14 loại ung thư khác nhau, bao gồm cả ung thư đại trực tràng Nếu bạn hút thuốc, hãy bỏ thuốc càng sớm càng tốt.
- Hãy tập thể dục đều đặn: Tập thể dục đều đặn mỗi ngày làm giảm nguy cơ của nhiều bệnh nghiêm trọng như ung thư đại trực tràng, và giữ cho tinh thần thoải mái, cơ thể dẻo dai và khỏe mạnh. Hãy tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày vì sức khỏe của chính bạn.
- Hạn chế rượu: Rượu có hại cho sức khỏe, tăng nguy cơ ung thư ung thư đại trực tràng. Vì vậy, bạn nên hạn chế rượu mỗi ngày để phòng chống ung thư đại trực tràng.
- Bổ sung đầy đủ vitamin D: Có bằng chứng cho thấy hấp thụ đủ canxi và vitamin D có thể giúp bảo vệ chống lại bệnh ung thư đại trực tràng.
- Bổ sung folate: Ngoài canxi và vitamin D, vitamin tổng hợp có chứa folate, đã được chứng minh trong nhiều nghiên cứu là giúp giảm nguy cơ ung thư ruột kết.
- Tầm soát ung thư đại trực tràng định kỳ: Tầm soát ung thư định kỳ là cách tốt nhất để bảo vệ mình khỏi bệnh. Tầm soát ung thư có thể giúp phát hiện bệnh sớm – khi cơ hội chữa bệnh là tốt nhất, và có thể giúp phát hiện ra tăng trưởng bất thường, gọi là polyp có thể phát triển thành cung thư. Hầu hết những người trên 40 tuổi nên tầm soát ung thư đại trực tràng, người có các yếu tố nguy cơ mắc bệnh cao hơn như có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư đại tràng hoặc các yếu tố nguy cơ quan trọng khác có thể bắt đầu tầm soát sớm hơn và thường xuyên hơn.
Triệu chứng bệnh Ung thư đại tràng
Triệu chứng ung thư đại tràng bao gồm:
- Đau bụng: Đau bụng là một trong các những triệu chứng sớm nhất và có ở 70 – 80% bệnh nhân ung thư đại tràng. Hoàn cảnh xuất hiện cơn đau không theo một quy luật nào: có thể đau bất kỳ lúc nào trong ngày, không liên quan đến bữa ăn, vị trí đau thường ở vùng bị ung thư. Cơn đau có thể dài hay ngắn, từ vài phút đến vài giờ. Cường độ đau lúc đầu thì ít, về sau đau nhiều. Ung thư ở đại tràng phải đến muộn thường có triệu chứng bán tắc ruột: người bệnh đau bụng từng cơn, đôi khi thấy sôi bụng, sau khi trung tiện được thì hết đau (hội chứng Koenig). Ung thư ở đại tràng trái thường đau độc ác dội khi có biến chứng tắc ruột.
- Rối loạn tiêu hoá: Thường có ở 60% bệnh nhân ung thư đại tràng. Biểu hiện bằng táo bón, tiêu lỏng hoặc xen kẽ giữa táo bón và tiêu lỏng. Táo bón thường thấy ở ung thư đại tràng trái nhiều hơn, táo bón kéo dài làm người bệnh khó chịu, nhức đầu, chán ăn, ảnh hưởng đến sức khoẻ. Dùng thuốc nhuận tràng người bệnh có thể đi tiêu trở lại, nhưng sau đó lại táo bón tiếp tục. Táo bón là do ung thư làm hẹp lòng ruột, cản trở lưu thông của phân, gây ứ đọng phân. Hiện tượng ứ đọng phân làm tăng quá trình thối rữa và lên men, sinh nhiều hơi, làm bụng chướng đồng thời cũng tăng bài tiết chất nhầy ở ruột, những chất nhầy này sẽ làm tiêu lỏng với phân lẫn chất nhầy và đôi khi có máu.
- Phân lẫn máu: Người bệnh đi tiêu, phân thường có máu do chảy máu ở vị trí ung thư (bên phải bị nhiều hơn bên trái). Xuất huyết ở đại tràng phải phân thường có màu đỏ sẫm, xuất huyết ở đại tràng trái phân có màu đỏ tươi hơn. Phân lẫn máu thường có ít chất nhầy của niêm mạc ruột. Hiện tượng xuất huyết thường rỉ rả, từng ít một nên lúc đầu không làm ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh. Sau đó do mất máu kéo dài nên làm người bệnh thiếu máu.
- Triệu chứng toàn thân: Do các sản phẩm thoái hoá của tổ chức ung thư và các chất trong ruột đã được hấp thụ qua thành ruột vào cơ thể, thường gặp ở ung thư đại tràng phải nhiều hơn ở ung thư đại tràng trái
- Sụt cân: có thể sụt cân từ từ làm người bệnh không chú ý, nhưng cũng có khi sụt cân nhanh (5kg trong 1 tháng), kèm theo các triệu chứng chán ăn, mệt mỏi.
- Thiếu máu: đặc điểm của thiếu máu trong ung thư đại tràng là thiếu máu mà không biểu hiện rõ sự mất máu nên khó phát hiện.
- Sốt: khoảng 16%- 18% bệnh nhân ung thư đại tràng có triệu chứng duy nhất là sốt.
- Khối u: Gặp ở 60% nhân bệnh ung thư đại tràng. Ung thư đại tràng phải dễ sờ thấy u hơn ở đại tràng trái. U ở 2 góc phải và trái đại tràng thường khó sờ thấy vì bị che lấp. Khi sờ thấy u của đại tràng thì thường là bệnh đã đến giai đoạn muộn.
Đối tượng nguy cơ bệnh Ung thư đại tràng
Mặc dù nguyên nhân gây ung thư đại tràng chưa rõ ràng, nhưng một số yếu tố sau đây được xem là nguy cơ đối với ung thư đại tràng:
- Cao tuổi. Phần lớn người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư đại tràng trên 50 tuổi. Ung thư đại tràng có thể xảy ra ở những người trẻ, nhưng ít hơn.
- Người Mỹ gốc Phi có nguy cơ bị ung thư đại tràng cao hơn những người thuộc các chủng tộc khác.
- Cá nhân từng bị ung thư đại trực tràng hoặc polyp. Nếu bạn đã bị ung thư đại tràng hoặc có polyp u tuyến, bạn có nguy cơ mắc bệnh ung thư đại tràng trong tương lai.Mắc bệnh viêm ruột mạn tính chẳng hạn như viêm loét đại tràng và bệnh Crohn, có thể làm tăng nguy cơ ung thư đại tràng.
- Hội chứng di truyền làm tăng nguy cơ ung thư đại tràng, bao gồm FAP và HNPCC.Tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư đại tràng và polyp đại tràng. Những người có cha mẹ, anh chị em hoặc con mắc ung thư đại tràng, thì có nguy cơ mắc các bệnh này cao hơn người bình thường.
- Chế độ ăn nhiều chất béo, ít xơ. Một số nghiên cứu đã tìm thấy sự gia tăng nguy cơ ung thư đại tràng ở những người ăn nhiều thịt đỏ.
- Người ít vận động cũng có nguy cơ mắc ung thư đại tràng
- Những người bị bệnh tiểu đường và kháng insulin có thể làm tăng nguy cơ ung thư đại tràng.
- Những người béo phì có nguy cơ gia tăng ung thư đại tràng so với người có trọng lượng bình thường.
- Người hút thuốc lá, uống rượu cũng có nguy cơ mắc ung thư đại tràng cao hơn.Từng xạ trị ở bụng để điều trị bệnh ung thư trước đó có thể làm tăng nguy cơ ung thư đại tràng.
Biện pháp Điều trị ung thư đại tràng
Ung thư đại tràng muốn điều trị đạt kết quả tốt phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố quan trọng nhất là phát hiện bệnh sớm. Các nhà khoa học cho rằng những bệnh nhân bị mắc bệnh ung thư đại tràng được phát hiện tình cờ và xử lý can thiệp bằng phẫu thuật sớm thì có khoảng 82% trường hợp có thể sống trên 5 năm, trái lại những bệnh nhân đã có triệu chứng của bệnh ung thư rồi mới đi khám và được phẫu thuật thì chỉ có khoảng 45% trường hợp sống thêm được trên 5 năm.
Ung thư đại tràng có nhiều phương pháp điều trị can thiệp như: phẫu thuật, dùng hóa chất chống ung thư, tia X-quang kết hợp phẫu thuật với hóa chất, tia phóng xạ… Cho đến nay phẫu thuật vẫn là phương pháp điều trị chính.
- Việc điều trị bằng hóa chất có khả năng diệt tế bào ung thư nhưng không diệt được tế bào ung thư cuối cùng nên phương pháp điều trị bằng hóa chất thường kết hợp với phẫu thuật và X-quang. Dùng hóa chất sẽ làm giảm một lạng lớn tế bào ung thư, số còn lại dùng phẫu thuật lấy bỏ nốt hoặc dùng hóa chất sau phẫu thuật để tiêu diệt những tế bào ung thư mà phẫu thuật không lấy được hết.
- Hiện nay phương pháp điều trị kết hợp giữa phẫu thuật với hóa chất chống tế bào ung thư ngày càng được sử dụng rộng rãi. Lưu ý hóa chất không những diệt tế bào ung thư mà còn có thể diệt cả một số tế bào bình thường khác như bạch cầu, vì vậy bệnh nhân cần phải được theo dõi thường xuyên trong quá trình điều trị.
- Phương pháp điều trị bằng tia phóng xạ cùng được kết hợp với phẫu thuật nhưng ít hơn so với hóa chất chống ung thư, thông thường tia phóng xạ được chỉ định điều trị cho những trường hợp không còn khả năng điều trị bằng phẫu thuật và những trường hợp tái phát sau phẫu thuật.
Có thể bạn thích: