Trong vòng 10000 năm nay, tác động của con người lên môi trường đã gây ra sự tuyệt chủng cho nhiều loài động vật quý giá. Bài viết này xin được cung cấp hình ảnh và thông tin về những loài động vật đã tuyệt chủng được cho là đẹp nhất từ trước đến nay
Lừa vằn
Lừa vằn là loài động vật tạo tuyệt vời vì vẻ ngoài của nó là sự kết hợp lạ kì giữa vóc dáng giống loài ngựa trong khi bộ lông lại giống với ngựa vằn. Đây là một bộ phận nhỏ của loài lừa, được phân loài cách đây 200 000 năm, song lại tuyệt chủng vào thế kỉ 19. Nơi chúng sống là Nam Phi, bởi tiếng kêu của chúng mà người ta còn đặt tên nó là quagga. Cụ thể là chúng đã tuyệt chủng vào năm 1883, do bị con người săn bắt quá mức để giành đất cho vật nuôi nông nghiệp hoặc để lấy thịt và da.
Sói Honshu Nhật bản
Còn được gọi là “canis lupus hodophilax”- sói honshu từng sống ở quần đảo Shikoku, Hyushu và Honshu Nhật Bản. đây là giống sói nhỏ nhất trong họ canis lupus, với chiều cao khoảng 91,5 cm và chiều ngang khoảng 30,5 cm. sau khi bệnh dại xâm nhập vào những đàn sói này ( bằng con đường truyền nhiễm trực tiếp hoặc lây gián tiếp qua những con chó từ nơi khác đến), căn bệnh đã dần tiêu diệt lượng lớn động vật và khiến chúng trở nên hung ác hăng với con người. Rừng và nơi ở của chúng càng bị tàn phá thì mối quan hệ giữa chúng với con người ngày càng căng thẳng, và sự công kích hung ác bạo của chúng đã khiến chúng bị săn lùng ngày một nhiều cho đến khi tuyệt chủng vào năm 1905.
Hổ răng kiếm
Hổ răng kiếm sống ở Bắc Mỹ và Nam Mỹ vào cuối kỉ băng hà, mặc dù nó tiến hóa thành loài hoàn chỉnh từ 2,5 triệu năm trước. một con hổ răng kiếm trưởng thành thường nặng 400kg, cao 1,4 mét và dài 3m. mặc dù được gọi là hổ răng kiếm nhưng hình dáng của chúng lại giống loài gấu hơn bởi hai chi trước ngắn và khỏe, không hài lòng để chạy đua. Răng kiếm đặc biệt có thể dài đến 30 cm, nhưng khá yếu và dễ vỡ, chỉ dùng để ngoặm lấy phần thịt mềm của những con mồi đang lơ đãng. Hổ răng kiếm còn có thể mở hàm rộng 120 độ, tuy nhiên lực cắn của chúng khá yếu. Hổ răng kiếm thường săn những con mồi to hơn như bò rừng, hươu nai, voi ma mút con, nếu cần chúng còn có thể nạp năng lượng mồi chết, nhiều giả thiết cho rằng chúng sống theo bầy đàn. Việc săn những con mồi nhỏ là điều quá khó với chúng, đó có thể là lí do khiến chúng không “lưu trú” được về sau. dù sao, giai đoạn tuyệt chủng của hổ răng kiếm cũng lại trùng khớp với thời gian con người xuất hiện và biết săn bắt động vật.
Rùa cạn đảo Pinta
Hay còn có tên Chelonoidis nigra abingdonii, rùa cạn đảo Pinta là một nhánh nhỏ thuộc loài rùa khổng lồ sống ở đảo Galapagos. Chúng bị săn ngày càng nhiều để làm thực phẩm vào thế kỉ 19, và môi trường sống của chúng bị mất hoàn toàn vào những năm 1950 khi loài dê được mang tới đảo nuôi. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để bảo vệ loài rùa này, nhưng sau năm 1971 chỉ còn lại duy nhất một con, đó là chú rùa solo độc nổi tiếng tên George. Mặc dù người ta đã cố thử cho George bắt cặp giao phối với những con rùa khác loài nhưng vẫn không có trứng nào nở được, và rốt cuộc nó chết vào năm 2012, cái chết cuối cùng trong nòi giống của nó.
Nai sừng tấm Ai-len
Hay còn có tên khao học là Megaloceros giganteus, nai sừng tấm Ai-len từng có mặt khắp Ai-len cho đến Siberia và tập trung nhiều nhất ở bắc Châu Âu, nhưng bây giờ sự “lưu trú” của chúng đã kết thúc. Loài nai này có khá nhiều điểm chung với loài nai hiện nay nên chúng còn được gọi là “Nai khổng lồ”, với chiều cao từ chân đến vai lớn nhất là 7 feet ( tương đương 2,14m), và cân nặng lớn nhất là 700kg. điểm đặc biệt ở loài nai này là bộ sừng (gạc) của chúng vĩ đại hơn bất kì loài nai nào khác, bề ngang của tấm sừng đạt đến 3,7m. sở dĩ bộ gạc của chúng to lớn như vậy là nhờ trải qua quá trình phân hóa theo giới tính, con đực sẽ dùng bộ gạc của mình để bắt nạt dọa, tấn công địch thủ, và đồng thời để thể hiện sự hấp dẫn của mình với con cái. Nai sừng tấm Ai-len trải qua giai đoạn phát triển suốt 400000 năm, và tuyệt chủng vào khoảng 5000 năm trước do sự săn bắt quá mức của con người. nhưng dù sao,giai đoạn băng tan thời đó đã tạo điều kiện cho vô vàng loài thực vật phát triển phong phú, dẫn đến sự thiếu hụt khoáng chất trầm trọng, nhất là canxi- thành phần chính cấu thành gạc nai, nên nếu loài nai này không tuyệt chủng vì bị săn bắt thì hẳn cũng sẽ tuyệt chủng vì không được cung cấp đủ canxi cho xương và sừng
chim Anca lớn
Còn được gọi là Pinguinus impennis, chim anca lớn là một loài chim không bay được giống y như chim cánh cụt ngày nay. Cũng như cánh cụt, chúng là loài bơi lội tài giỏi, trữ mỡ dưới da để giữ ấm, tập trung thành đàn chen chúc và đứng sát nhau để sinh tồn. điểm khác biệt là chúng có chiếc mỏ quặp khá nặng, chiều cao cơ thể khoảng 90 cm và sống ở bắc Đại Tây Dương cho đến khi bị tuyệt chủng vào thế kỉ 19. Lí do là vào đầu thế kỉ 16, người châu Âu săn bắt loài chim này để lấy lông tơ làm gối, sau đó chúng lại bị săn ở Bắc Mỹ để làm thú bắt cá, hầu hết đều bị đối xử tàn bạo như lột da lấy lông hoặc nướng sống. sau khi chúng trở nên khan hiếm, các viện bảo tàng và nhà sưu tầm lại còn săn lùng mẫu vật chim anca ( mẫu cơ thể chết), cuối cùng loài chim này buộc phải tuyệt chủng
Voi ma mút
Voi ma mút lông len an cư nhiều nhất ở vùng băng giá của bắc bán cầu vào đầu Thế Toàn tân (11700 năm trước). loài vật khổng lồ này có thể cao đến 3,35 mét và nặng 6 tấn, gần như bằng với voi châu Phi, tuy nhiên chúng lại có họ hàng gần hơn với voi châu Á. Không giống những loài voi bình thường, voi Ma mút có bộ lông len màu nâu đen hoặc vàng hoe, đuôi cực ngắn và rúc sát vào cơ thể để giữ ấm Voi Ma mút có bộ ngà dài để chiến đấu và lấy cỏ, do đó chúng bị săn bắt nhiều không chỉ để lấy thịt mà còn để lấy ngà. Nhưng nguyên nhân chính khiến chúng tuyệt chủng là do sự biến đổi khí hậu vào cuối kì băng hà. Băng tan đã xóa đi nơi ở của chúng, khiến dân số chúng giảm mạnh, số sống sót còn lại quá ít nên khi con người tiếp tục săn bắt, chúng bị quét sạch dần trong 4000 năm tiếp theo.
Có thể bạn thích: