Nước ta sông sâu biển rộng, những dòng sông đã là mồ chôn của không biết bao nhiêu quân xâm lược. Nếu Trung Quốc có ải Xích Bích thì nước ta có những ải thủy chiến vô tiền khoáng hậu trong lịch sử không hề thua kém.
Trận Cảng Eo: Người Việt đánh bại hạm đội châu Âu
Từ đầu thế kỷ 17, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài đã có sự backlinks với lực lượng Đông Ấn Hà Lan để chống lại chúa Nguyễn.
Hè năm 1643, theo yêu cầu của chúa Trịnh, công ty Đông Ấn Hà Lan đưa ba pháo hạm lớn đến hội quân với họ Trịnh tại sông Gianh (Quảng Bình). Trên hải trình tiến công, hạm đội bị gió thổi giạt vào gần cảng Eo của Đàng Trong.
Được tin, vào ngày 7/7/1643, đích thân chúa Nguyễn Phúc Lan cùng Thế tử là Nguyễn Phúc Tần dẫn 50 thuyền tiến thẳng ra cảng Eo. Với số lượng vượt trội, đội thuyền chúa Nguyễn nhanh chóng bao vây ba chiến hạm Hà Lan và đánh phá quyết liệt. Quân Nguyễn tràn lên được boong chiến hạm lớn nhất của Hà Lan mang tên De Wijdeness do thuyền trưởng Pieter Baek chỉ huy, sau đó bẻ bánh lái, chặt gẫy cột buồm làm chiến hạm bị tê liệt hoàn toàn. Dồn vào bước đường cùng, thuyền trưởng Hà Lan đã châm lửa đốt kho thuốc súng, khiến tàu nổ tung. Hầu như toàn bộ những binh lính trên tàu, gồm quân chúa Nguyễn và 200 binh sĩ Hà Lan, kể cả Baek thiệt mạng.
Trận đánh này là lần đầu tiên trong lịch sử thủy quân của người Việt chiến thắng trước một hạm đội châu Âu.
Nhật Lệ ải thủy chiến lịch sử giữa Đại Việt và Chiêm Thành
Năm 1069, vua Lý Thái Tông và danh tướng Lý Thường Kiệt đã đem 5 vạn quân đi chinh phạt Chiêm Thành nhằm ngăn chặn hành động backlinks với nhà Tống đánh chiếm biên giới phía Nam của Đại Việt.
Lực lượng Đại Việt đã hành quân bằng đường biển và khi đến cửa Nhật Lệ (Quảng Bình) thì gặp thủy quân Chiêm chặn đánh. Tại đây, lực lượng thủy quân Chiêm Thành đã bị đánh tan trước sức mạnh của đạo thủy quân Đại Việt.
Đánh giặc Quỳnh Châu – chiến tích thời Hùng Vương
Nhân dân sống ở ven bãi biển của nước Văn Lang, vào thời Hùng Vương thứ 6 thường bị giặc Quỳnh Châu đưa thuyền vào cướp phá khiến người dân nơi đây khốn đốn. Trước lời kêu cứu của dân, Vua Hùng đã đem quân về đóng ở một cái hang mà ngày nay là hang Vua ở Hải Phòng.
Hùng Vương đã lãnh đạo quân dân Văn Lang đánh tan nhiều cuộc tấn công của giặc Quỳnh Châu, đóng thuyền vượt biển sang tận đảo Quỳnh Châu, phá tan sào huyệt địch. Kể từ đó, giặc biển Quỳnh Châu không còn dám vào quấy phá nhân dân Văn Lang nữa.
Trận Hồ Điển Triệt và cơ hội bị bỏ lỡ của Lý Nam Đế
Sau khi lật đổ ách thống trị của nhà Lương, Lý Bí tự xưng Lý Nam Đế lập nên nước Vạn Xuân. Năm 545 nhà Lương tiến hành xâm chiếm Vạn Xuân nhằm lật lại ách thống trị.
Với lực lượng địch quá áp đảo, Lý Nam Đế buộc phải rút lui bảo toàn lực lượng. Năm 546 Lý Nam Đế kéo quân ra hạ thủy trại ở hồ Điển Triệt, sẵn sàng nghênh địch.
Quân Lương ngược dòng sông Lô lên phá doanh trại của Lý Nam Đế ở hồ Điển Triệt nhưng bị thất bại liên tiếp do địa thế vùng hồ này rất hiểm yếu, đành co cụm lại ở vòng ngoài của hồ. Thế nhưng quân Lý Nam Đế vẫn cố thủ, không xuất kích để tiêu diệt kẻ địch đang ở thế bị động.
Một đêm mưa lũ khiến mực nước hồ Điển Triệt dâng cao, quân Lương nhận ra thời cơ nhanh chóng đưa chiến thuyền đánh úp căn cứ của Lý Nam Đế. Nghĩa quân do bị đánh bất ngờ nên không kịp phòng bị, nhanh chóng tan vỡ, số quân còn lại phải mở đường máu rút lui khỏi hồ Điển Triệt trong sự truy kích của kẻ thù.
Trận Bạch Đằng 938 và chiến thuật đóng cọc gỗ kinh điển
Năm 937, Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ (bố hoàng hậu của Ngô Quyền) để chiếm quyền, sau đó cầu cứu nhà Nam Hán để bảo vệ quyền lực của mình.
Biết tin Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, hành quân quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn trả thù nhà, rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán do Lưu Hoằng Tháo chỉ huy.
Ông lợi dụng thủy triều ở sông Bạch Đằng, Ngô Quyền sai đóng cọc dưới lòng sông, đầu bịt sắt nhọn khi nước triều lên thì bãi cọc bị che lấp. Cuộc chiến nổ ra, ông đã nhử quân Nam Hán vào khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền quân Nam Hán mắc cạn mới hạ lệnh tổng tấn công. Kết quả, quân Nam Hán thảm bại, Lưu Hoằng Tháo cũng phải bỏ mạng tại đây cùng với quá nửa quân sĩ.
Trận Bạch Đằng năm 1288 – sự hồi sinh của lịch sử
Năm 1287, quân dân nhà Trần cùng nhau chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ 3. Quân Nguyên chỉ chiếm được kinh thành Thăng Long không một bóng người. Nhưng tại ải Vân Đồn đoàn thuyền chở lương của chúng bị quân nhà Trần đốt sạch. Trước tình thế bất lợi, quân Nguyên tổ chức rút về nước theo nhiều hướng khác nhau. Tháng 3/1288, đạo thủy quân của kẻ xâm lược do Ô Mã Nhi thống lĩnh rút qua ngả sông Bạch Đằng.
Trần Hưng Đạo nghiên cứu kỹ lưỡng quy luật thủy triều của sông Bạch Đằng để bày trận trận cọc gỗ và ba trí mai phục quân Nguyên. Trận đánh mở đầu, quân Đại Việt cho những chiếc thuyền nhỏ ra khiêu chiến vừa đánh vừa lui để nhử địch tới ải cọc gỗ đã ba trí sẵn và khi nước triều rút, thảm họa đã ập xuống đầu quân xâm lược. Những con thuyền lớn bị dồn ứ, tan vỡ khi va vào những chiếc cọc nhọn hoắt, quân nhà Trần tràn ra từ phía 2 bên bờ với khí thế ngút trời. Kết cục tất yếu đã xảy ra: quân Nguyên thảm bại, mất 4 vạn quân, 400 chiến thuyền và nhiều tướng lĩnh chủ chốt bị bắt sống.
Tử địa của người Xiêm ở Rạch Gầm Xoài Mút
Tháng 7/1784, mượn cớ giúp Nguyễn Ánh chống Tây Sơn, với khoảng 50.000 quân Xiêm với hơn 300 chiến thuyền cùng gần 4.000 quân Nguyễn Ánh theo 2 đường thủy bộ tiến vào vùng đất Kiên Giang của Việt Nam.
Trước tình hình này, tháng 1/1785, Nguyễn Huệ đã đưa 20.000 quân thủy bộ từ Quy Nhơn vào Gia Định. Không chủ trương phòng thủ Gia Định đang bị uy hiếp, ông đã đưa quân lên Mỹ Tho quyết chiến với quân Xiêm.
Đoạn sông Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút được chọn làm nơi quyết chiến.
Ngày 19/1/1785, toàn bộ lực lượng Xiêm – Nguyễn theo đường thủy tiến đánh thành Mỹ Tho. Kẻ thù lọt vào ải địa phục kích tại Rạch Gầm Xoài Mút, quân Tây Sơn thực hiện hỏa pháo đặt trên thuyền, trên 2 bờ và cù lao Thới Sơn bắn áp đảo, đồng thời thủy binh từ các nhánh sông tiến ra và từ Mỹ Tho kéo lên chặn đầu, khóa đuôi, đánh tạt sườn quân Xiêm, bộ binh đón đánh diệt tàn quân chốn chạy trên bờ. Kết quả là Quân Xiêm chỉ sống sót khoảng vài ngàn, phải mở đường máu chạy về nước. Nguyễn Ánh cũng vội vã tìm đường chạy sang Xiêm.
Có thể bạn thích: