Nhà thơ Chu Mạnh Trinh (1862-1905) tự Cán Thần, tên hiệu là Trúc Vân, người làng Phú Thị, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Đậu tiến sỹ triều Thành Thái (1892). Làm quan qua các chức: tri phủ Lý Nhân, rồi án sát Thái Nguyên, án sát Hưng Yên, tổng cộng 10 năm (1893-1903). Sau ấy cáo quan về làng, hai năm sau thì mất ở tuổi 44. Chu Mạnh Trinh có cốt cách một nhà Nho tài tử. Ông làm quan, nhưng chính sự phản động thời đấy nước mất dân cùng, bất công đầy rẫy, không cho phép ông thi thố hoài bão nước giàu dân mạnh, ông thành viên quan lười, thích ngao du hát xướng, xây dựng đình chùa, làm thơ vịnh truyện. Hành trạng đấy người khen kẻ chê. Khen là khen ông thanh khiết, thanh đạm, không về vào hùa với bọn thống trị, khéo léo giúp dân. Hồn thơ Chu Mạnh Trinh tiêu tao tinh tế, ông thiên về nội tâm cá thể hơn là hiện thực xã hội. Đọc thơ ông cũng cần một sự lắng lại, cảm thông, lắng nghe cho kỳ được một nỗi u hoài dăng mắc trong câu thơ.TopChuan.com xin giới thiệu những bài thơ hay của ông.
Bài thơ: Hồi 04 – Kiều cậy em thay lời
Hồi 04 – Kiều cậy em thay lời
Sự đâu sóng gió nổi cơn đen,
Chín chữ cù lao phải báo đền.
Ân nặng quản chi liều phận thiếp,
Tình thân âu sẽ chắp duyên em.
Nước non nghìn dặm đôi hàng lệ,
Tâm sự năm canh một bóng đèn.
Ướm hỏi Liêu Dương người có biết ?
Này là trâm quạt của làm tin.
Nguồn: Truyện Kiều và các nhà nho thế kỷ 19, Phạm Đan Quế, NXB Thanh Niên, in lần thứ ba, 2003
Bài thơ: Hồi 01 – Kiều chơi tết thanh minh
Hồi 01 – Kiều chơi tết thanh minh
Mùa xuân ai khéo vẽ nên tranh,
Nô nức đua nhau hội đạp thanh.
Phận bạc ngậm ngùi người chín suối,
Duyên nay dun dủi khách bố sinh.
Dãy hoa nép mặt gương lồng bóng,
Ngàn liễu rung cương sóng gợn tình.
Man mác vì đâu thêm ngán nỗi!
Đường về chiêng đã gác chênh chênh.
Nguồn: Truyện Kiều và các nhà nho thế kỷ 19, Phạm Đan Quế, NXB Thanh Niên, in lần thứ ba, 2003
Bài thơ: Thuý Kiều oan trái
Thuý Kiều oan trái
Bát ngát nhẽ gió thanh, trăng bạc,
Trạnh niềm xưa lại nhớ nàng Kiều.
Phận hồng nhan cay đắng trăm chiều
Cơn dâu bể phải theo thời sự.
Mình nàng tính không đường lưỡng lự
Suốt năm canh nương bóng đèn tàn
Trách ông tơ sao khéo đa đoan
Duyên chị để mượn em chắp chỉ
Nhất phiến tài tình thiên cổ luỵ
Tân thanh đáo để vị thuỳ thương
Mười lăm năm trong sổ đoạn trường
Son phấn biết mấy lần trôi giạt.
Chữ tình để dành chung kiếp khác,
Đạo sinh thành trước phải đền ơn.
Gác lời thệ hải minh sơn.
Nguồn: Truyện Kiều và các nhà nho thế kỷ 19, Phạm Đan Quế, NXB Thanh Niên, in lần thứ ba, 2003
Bài thơ: Đề Dương quý phi từ
Đề Dương quý phi từ
Cố quốc sơn hà, diểu tịch yên,
Khuy khuy từ miếu, trĩ Nam thiên.
Cừu Nguyên di hận, bố đào tráng,
Tồn Tống cô trinh, nhật nguyệt huyền.
Vạn diểu phong dao, hoàn bội hưởng,
Nhất hồ thu tẩy, kính quang viên.
Từ vân phổ tác thiên gia ấm,
Càn Hải linh thanh, hợp tịnh truyền.
Dịch nghĩa
Sông núi quê hương mờ trong khói chiều,
Ngôi miếu thờ bà sừng sững đứng giữa cõi trời Nam.
Nỗi hận bọn giặc Nguyên xưa vương trên ngọn sóng lớn,
Tấm lòng trung thành với triều Tống còn mãi với mặt trời mặt trăng.
Muôn cành cây gió lay động, âm vang như tiếng vòng ngọc va chạm,
Một đầm nước thu tẩy rửa, ánh nắng chiếu dọi như chiếc gương tròn.
Mây lành bay khắp nơi, che chở cho hàng nghìn gia đình,
Đền này cùng với đền Cờn sẽ linh thiêng và truyền lại lâu dài.
Bài thơ: Tây Hồ cảm tác
Tây Hồ cảm tác
Hoang lâu cổ sái tịch dương tà,
Tiêu sắt hàn phong lạc diệp đa.
Tịch mịch yên bố thu sắc lão,
Cánh vô nhân xướng thái vi ca.
Dịch nghĩa
Lầu hoang chùa cổ bóng chiều tà,
Gió lạnh hiu hắt lá cây rụng nhiều.
Cảnh tịch mịch chốn yên hà sắc thu đã muộn,
Lại không có người hát khúc ca hái rau vi.
Bài thơ này được chép trong “Trúc Vân Chu thị thi tập”, nằm trong tập “Hiếu cổ đường thi tập” 孝古堂詩集 (VHv.106).
Nguồn: Chùa Trấn Quốc, khảo cứu và tư liệu Hán Nôm, NXB Văn học, 2009
Bài thơ: Cổ Loa hữu cảm
Cổ Loa hữu cảm
Lang quân tình trọng, phụ ân thâm,
Bất bạch kỳ oan trực đáo câm.
Cơ trảo vô linh quy diệc khứ,
Minh châu hữu lệ bạng do trầm.
Hoàng bi cổ thụ thiên niên quốc,
Bích hải dao thiên nhất phiến tâm.
Tịch mịch tiền triều cung ngoại miếu,
Ðỗ quyên đề đoạn nguyệt âm âm…
Dịch nghĩa
Tình nghĩa của chồng thì nặng, ơn cha thì sâu,
Chẳng rõ mình mang nỗi kỳ oan cho đến bây giờ.
Máy móc bằng móng không còn thiêng, rùa cũng đi mất,
Hạt minh châu rơi lệ, con chai vẫn còn ở dưới đáy sâu.
Bia vàng cổ thụ ghi chép sử nước non ngàn năm,
Biển xanh trời rộng bao la, chỉ có một tấc lòng son này.
Bên ngoài miếu đường cung triều cũ vắng vẻ lặng lẽ,
Tiếng chim cuốc kêu lúc nối lúc đứt, ánh trăng mờ ảo.
Bài thơ: Hồi 17 – Kiều gặp Từ Hải
Hồi 17 – Kiều gặp Từ Hải
Những nghĩ nương mình chốn cửa không,
Gỡ ra sao khéo buộc vào vòng.
Nước non lại gặp thần mày trắng,
Quả kiếp còn đeo nợ má hồng.
Bể khổ nào ai tay tế độ,
Cõi trần mấy kẻ mặt anh hùng.
Lạ cho lời nói nên tri kỷ,
Hương bén mùi duyên lửa lại nồng.
Nguồn: Truyện Kiều và các nhà nho thế kỷ 19, Phạm Đan Quế, NXB Thanh Niên, in lần thứ ba, 2003
Bài thơ: Tổng vịnh Truyện Kiều
Tổng vịnh Truyện Kiều
Cuốn ngỏ rèm xuân trải mấy sương,
Sắc tài chi lắm để làm gương.
Công cha bao quản liều thân thiếp,
Sự nước xui nên phụ nghĩa chàng.
Cung oán thù nỉ non đàn “Bạc mệnh”,
Duyên nay run rủi lưới Tiền Đường.
Hai bên vẹn cả tình cùng hiếu,
Đem bắc đồng cân đáng mấy vàng.
Nguồn:
1. Truyện Kiều và các nhà nho thế kỷ 19, Phạm Đan Quế, NXB Thanh Niên, in lần thứ ba, 2003
2. Việt Nam thi văn hợp tuyển, Dương Quảng Hàm, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Hà Nội, 1951
Có thể bạn thích: