Nhà thơ Phạm Tiến Duật, tên thật mà cũng là bút danh, sinh ngày 14-1-1941, mất năm 2007. Ông tốt nghiệp khoa Văn, Đại học sư phạm, nhưng chưa đi dạy ngày nào. Ông nhập ngũ năm 1965 có mười bốn năm trong quân đội thêm tám năm ở Trường Sơn, đoàn vận tải Quang Trung 559. Có thể nói Trường Sơn đã tạo nên thơ Phạm Tiến Duật, và Phạm Tiến Duật cũng là người mang được nhiều nhất Trường Sơn vào thơ. Nói đến đề tài Trường Sơn đánh Mỹ, người ta không thể quên Phạm Tiến Duật và thơ Phạm Tiến Duật hay nhất cũng ở chặng Trường Sơn. Sau khi chiến tranh đã qua, tâm hồn thơ Phạm Tiến Duật vẫn chưa ra khỏi Trường Sơn. Những bài thơ anh viết vẫn còn vang ngân lắm hình bóng của Trường Sơn. Phạm Tiến Duật có giọng thơ không giống ai, và cũng khó ai hùa theo được, dù hồi đó đã thấy vài người mô phỏng. Khó vì giọng đùa đùa, tinh nghịch, tếu táo nhưng lại đụng vào những miền sâu thẳm của tình cảm con người. Giọng ấy là của một chất tâm hồn chứ không phải chỉ đơn thuần một kiểu cách chữ nghĩa. TopChuan.com xin giới thiệu những bài thơ hay của ông.
Bài thơ: Gửi em, cô thanh niên xung phong
Gửi em, cô thanh niên xung phong
Có lẽ nào anh lại mê em
Một cô gái không nhìn rõ mặt
Ðại đội thanh niên đi lấp hố bom
Áo em hình như trắng nhất
Người tinh nghịch là anh dễ thân
Bởi vì thế có em đứng gần
Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là “Thạch Nhọn”
Ðêm ranh mãnh ngăn cái nhìn đưa đón
Em đóng cọc rào quanh hố bom
Cái miệng em ngoa cho bạn cười giòn
Tiếng Hà tĩnh nghe bi quan cười đáo để
Anh lặng người như trôi trong tiếng ru.
Tranh thủ có ánh sáng đèn dù
Anh vội nhìn em và bạn em khắp lượt
Mọi người cũng tò mò nhìn anh
Rồi bóng tối lại khép vào bóng tối
Em ơi em, hãy nghe anh hỏi
Xong đoạn đường này các em làm đâu
Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu
Cô gái ở Thạch Kim Thạch Nhọn
Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm
Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều.
Anh đã đi rất nhiều, rất nhiều
Những con đường như tình ái mới mẻ
Ðất rất hồng và người rất trẻ
Nhưng chẳng thấy em, cô gái ở Thạch Nhọn Thạch Kim
Những đội làm đường hành quân trong đêm
Nào cuốc nào choòng xoong nồi xủng xoảng
Rực rỡ mặt đất bình minh
Hấp hối chân trời pháo sáng
Ðường trong tim anh in những dấu chân.
Chiếc võng bạc trên đường hành quân
Anh đã buộc nhiều cây xoan cây ổi
Lại đường mới và hàng nghìn cô gái
Ở đâu em tinh nghịch của anh?
Bụi mù trời mùa hanh
Nước trắng khe mùa lũ
Ðêm rộng dài là đêm không ngủ
Em vẫn đi, đường vẫn liền đường
Cạnh giếng nước có bom từ trường
En không rửa ngủ ngày chân lấm
Ngày em phá nhiểu bom nổ chậm
Ðêm nằm mơ nói mớ vang nhà
Chuyện kể từ nỗi nhớ sâu xa
Thương em, thương em, thương em biết mấy…
Dừng tay cuốc khi em ngoảnh lại
Sẽ giật mình đường mới ta xây
Ðã có độ dài hơn cả độ dài
Của đường xá đời xưa để lại
Sẽ ra về bao nhiêu cô gái
Một ngày mai đường sẽ đứng chơ vơ
Ðể cho đời sau còn thấy ngẩn ngơ
Trước những công trình ngoằn ngoèo trên mặt đất.
Ơi em gái chưa một lần rõ mặt
Có lẽ nào anh lại mê em
Từ cái đêm Thạch Nhọn Thạch Kim
Tên em đã thành tên chung anh gọi:
Em là cô thanh niên xung phong.
Bài thơ viết tại Đức Thọ năm 1968.
Nguồn: Trường Sơn – đường khát vọng, NXB Chính trị quốc gia, 2009
Bài thơ: Trường Sơn đông, Trường Sơn tây
Trường Sơn đông, Trường Sơn tây
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Ðường ra round mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Ðông nhớ Trường Sơn Tây.
Một dãy núi mà hai màu mây
Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác
Như anh với em, như Nam với Bắc
Như Ðông với Tây một dải rừng liền.
Trường Sơn tây anh đi, thương em
Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Rau hết rồi, em có lấy măng không.
Em thương anh bên tây mùa đông
Nước khe cạn bướm bay lèn đá
Biết lòng anh say miền đất lạ
Chắc em lo đường chắn bom thù
Anh lên xe, trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua tan nỗi nhớ
Em xuống núi nắng về rực rỡ
Cái nhành cây gạt nỗi riêng tư.
Ðông sang tây không phải đường thư
Ðường chuyển đạn và đường chuyển gạo
Ðông Trường Sơn, cô gái “ba sẵn sàng” xanh áo
Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh.
Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đoàn quân trùng trùng ra trận
Như tình ái nối lời vô tận
Ðông Trường Sơn nối tây Trường Sơn.
Nguồn: Trường Sơn – đường khát vọng, NXB Chính trị quốc gia, 2009
Bài thơ: Đèo Ngang
Đèo Ngang
Pháo tàu địch đêm đêm nhằm bắn
Đèo vẫn nguyên lành nằm với biển reo
Nhà như lá đa rơi lưng chừng dốc
Sông suối từ đâu đổ xuống lưng đèo.
Đường nhằm hướng Nam,
Người nhằm hướng Nam,
Xe đạn nhằm hướng Nam
vượt dốc.
Bao nhiêu người làm thơ Đèo Ngang
Mà quên mất con đèo chạy dọc.
Bài thơ: Lửa đèn
Lửa đèn
I – ĐÈN
Anh cùng em sang bên kia cầu
Nơi có những miền quê yên ả
Nơi có những ngọn đèn thắp trong kẽ lá
Quả cây chín đỏ hoe
Trái nhót như ngọn đèn tín hiệu
Trỏ lối sang mùa hè,
Quả cà chua như cái đèn lồng nhỏ xíu
Thắp mùa đông ấm những đêm thâu,
Quả ớt như ngọn lửa đèn dầu
Chạm đầu lưỡi chạm vào sức nóng…
Mạch đất ta dồi dào sức sống
Nên nhành cây cũng thắp sáng quê hương
Chúng nó đến từ bên kia biển
Rủ nhau bay như lũ ma trơi
Từ trên trời bảy trăm mét
Thấy que diêm sáng mặt người
Một nghìn mét từ trên trời
Nhìn thấy ngọn đèn dầu nhỏ bé
Tám nghìn mét
Thấy ánh lửa đèn hàn chớp loé
Mà có cần đâu khoảng cách thấp cao
Chúng lao xuống nơi nao
Loé ánh lửa,
Gió thổi tắt đèn, bom rơi máu ứa.
Trên đất nước đêm đêm
Sáng những ngọn đèn
Mang lửa từ nghìn năm về trước,
Lấy từ thuở hoang sơ,
Giữ qua đời này đời khác
Vùi trong tro trấu nhà ta.
Ôi ngọn lửa đèn
Có nửa cuộc đời ta trong ấy!
Giặc muốn cướp đi
Giặc muốn cướp lửa tim ta đấy
II – TẮT LỬA
Anh cùng em sang bên kia cầu
Nơi có những miền quê yên ả
Nơi tắt lửa đêm đêm khiến đất trời rộng quá
Không nhìn thấy gì đâu
Bóng tối che rồi
Cây trúc làm duyên phải nhờ gió thổi
Cô gái làm duyên phải dùng giọng nói
Bông hoa làm duyên phải luỵ hương bay…
Bóng tối phủ dày
Che mắt địch
Nơi tắt lửa là nơi vang rền xe xích
Kéo pháo lên round địa đồng cao
Tiếng khẩu đội trưởng ở đâu
Đấy là đuôi khẩu pháo
Tiếng anh đo xa điểm đều
Vang ở đâu, đấy là giữa điểm đồ
Nơi tắt lửa là nơi in vết bánh ôtô,
Những đoàn xe đi như không bao giờ hết,
chiếc sau nối chiếc trước ì ầm
Như đàn con trẻ chơi u chơi âm
Đứa này nối hơi đứa khác.
Nơi tắt lửa là nơi dài tiêng hát
Đoàn thanh niên xung phong phá đá sửa đường;
Dẫu hố bom kề bên còn bay mùi khét
Tóc lá sả đâu đó vẫn bay hương
Đêm tắt lửa trên đường
Khi nghe gần xa tiếng bước chân rậm rịch
Là tiếng những đoàn quân xung kích
Đi qua.
Từ trong hốc mắt quầng đen bóng tối tràn ra
Từ dưới đáy hố bom sâu hun hút
Bóng tối dâng đầy toả ngợp bao la,
Thành những ván đen che những bào thai chiến dịch
Bóng đêm ở Việt Nam
Là khoảng tối giữa hai ván kịch
Chứa bao điều thay đổi lớn lao,
Bóng đêm che rồi không nhìn thấy gì đâu
Cứ đi, cứ đi nghe lắm âm lượng mới lạ.
III – THẮP ĐÈN
Anh cùng em sang bên kia cầu
Nơi có những miền quê yên ả
Nơi đêm ngày giặc điên cuồng bắn phá
Những ngọn đèn vẫn cứ thắp lên
Chiếc đèn chui vào ống nứa
Cho em thơ đi học ban đêm,
chiếc đèn chui vao lòng trái núi
Cho xưởng máy thay ca vời vợi,
Chiếc đèn chui vào chiếu vào chăn
Cho những tốp trai làng đọc lá thư thăm
Ta Thắp đèn lên trên đỉnh núi
Gọi quân thù đem bom đến dội
Cho đá lở đá lăn
Lấy đá xây cầu, lấy đá sửa đường tàu
Ta bật đèn pha ôtô trong chớp loè ánh đạn
Rồi tắt đèn quay xe
Đánh lạc hướng giặc rồi ta lại lái xe đi…
Ngày mai, ngày mai hoàn toàn chiến thắng
Anh dắt tay em, trời chi chit sao giăng
“Thắp đèn ta sẽ chơi trăng ngoài thềm”
Ta thắp đèn lồng, thắp cả đèn sao năm cánh
Ta dẫn nhau đến ngôi nhà đèn hoa lấp lánh
Nơi ấy là phòng cưới chúng mình
Ta sẽ làm cây đèn kéo quân thật đẹp
Mang hình những người những cảnh hôm nay
Cho những cuộc hành quân nào còn trong bóng tối
Sẽ hiện muôn đời trên mặt ngọn đèn xoay.
1967
Ghi chú của tác giả: Hồi cuối năm 1966 tại Tây Bắc, tôi (PTD) đã có mấy tháng là pháo thủ pháo cao xạ (tiểu đoàn 24 trực thuộc Quân khu). Ấy thế mà còn viết nhầm. Do khi viết cứ mê đi, mụ đi mà nhầm. Ấy là dòng này “Tiếng anh đo xa điểm đều như đếm nhịp chày giã gạo”. Những dòng trên đã cho thấy pháo đây là pháo tầm thấp. Ban đêm làm sao dùng được máy đo xa bằng mắt thường. Nhưng thôi, không sửa. Đã là cuộc đời thì hẳn có tì vết.
Nguồn: Thơ Phạm Tiến Duật, NXB Hội nhà văn, 2007
Bài thơ: Hương trầm Đức Phổ
Hương trầm Đức Phổ
Hương trầm bay trên đất quê hương
Đặng Thuỳ Trâm nơi này em nằm lại
Tôi ao ước dù trong tưởng tượng
Nâng mái tóc em mãi mãi tuổi hai mươi
Ơi! Đặng Thuỳ Trâm, Đặng Thuỳ Trâm ơi
Em là trầm thơm nơi đất lành Đức Phổ
Dù trong lửa bom rơi vẫn hiện lên rạng rỡ
Gương mặt người bác sĩ đoan trang
Đây những dòng ghi từ nơi em nằm lại
Nói với bao người thắp sáng niềm tin
Để ngàn năm lớp lớp tuổi hai mươi
Mang trái tim Đặng Thuỳ Trâm và tình ái đất nước
Từ Đức Phổ nơi dấu chân bao người đi trước
Hương Trầm bay, thơm ngát trời xanh.
Theo bài báo “Một bài thơ chưa in của nhà thơ Phạm Tiến Duật” (Báo Văn nghệ công an, ngày 19-8-2013), bài thơ này được Phạm Tiến Duật viết khoảng tháng 6-2017, trước khi biết mình bị bệnh và qua đời, được đưa cho nhạc sĩ Lê Gia Hiếu để phổ nhạc biểu diễn trong chương trình hát về Đặng Thuỳ Trâm nhân dịp tỉnh Quảng Ngãi hoàn thành một bệnh xá mang tên chị ở huyện Đức Phổ. Ca khúc cùng tên đã được phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam những ngày sau đó.
Nguồn: Lê Gia Hiếu, “Một bài thơ chưa in của nhà thơ Phạm Tiến Duật”, Báo Văn nghệ công an, ngày 19-8-2013
Bài thơ: Nhớ
Nhớ
Lời một chiến sỹ lái xe
Cái vết thương xoàng mà đi viện
Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.
1969
Bài thơ: Khúc hát thanh xuân
Khúc hát thanh xuân
Sẽ đến lúc ta trở về già
Nhưng tới đó hãy hay, giờ ta còn trẻ chán
Bắt chước dáng cụ già không khó lắm
Đến khi già, muốn trẻ, khó làm sao
Lúc còn trẻ ra biển dễ hơn khi già ra ao
Lúc trẻ ta lội rừng dễ hơn là khi già thăm vườn mà mỏi gối
Với tuổi trẻ không có đêm nào gọi là đêm tối
Mưa đã là bạn ta, nắng cũng là bạn ta
Ta cày mặt đất lên trong ánh nắng chói loà
Ta gieo mạ theo đường chân trời cho lúa mọc
Cười cái cần câu, ta huơ cần trục
Lấy cân tạ ta cân và thước cây số ta đo
Nhưng ta lấy phút giây để tính thì giờ
TÌnh yêu sẵn trong ta đến bồn chồn biết mấy
Thân thể ta là toà lầu lộng lẫy
Ánh sáng chứa bên trong và tiếng hát tràn đầy
Ta nguyện là đầu rễ, ta nguyện là ngọn cây
Nơi ta tựa ấy thân cành vững chãi
Tuổi già vui cùng ta mà trẻ lại
Trẻ em nhìn sức vóc ta mà lớn lên
Nhưng có một điều xin bè bạn đừng quên
Là chính khúc hát thanh xuân này các cụ già đã hát
Ta nhẩm lại, bỗng thấy lòng dào dạt
Nên lại hát tuổi mình ở chính bàn tay
1978
Nguồn: Báo Tiền phong, số ngày 30-1-1979
Bài thơ: Một giờ và mười phút
Một giờ và mười phút
Tặng T.V
Cứ một giờ lại nghỉ mười phút
Trong buổi hành quân đi bộ sáng nay
Anh bỗng nhớ em lên lớp mỗi ngày
Cứ một giờ lại nghỉ mười phút
Chẳng phải điều gì cũng lặp lại nhau đâu
Giữa năm tháng hào hùng và biến động
Em của anh, quanh ta là cuộc sống
Chẳng phải điều gì cũng lặp lại nhau đâu
Khi em ngồi nhớ anh ngày chủ nhật thẳm sâu
Anh đang lội bùn, trong rừng đầy lá mục
Lúc em ngồi với học sinh là lúc
Anh đứng đỉnh đèo gió thổi mênh mông
Giấy bạc thuốc lá để lại đầy phòng
Khi em cắt làm hoa cho học sinh đem múa
Là khi anh đi những nơi bom nổ
Nào sắt nào nhôm phơi bạc vùng rừng
Tấm bảng đen em vẽ những đường cong
Tấm bảng đêm anh vạch lên đường đạn
Vết phấn trắng và vệt đồng cháy sáng
Ở hai đầu round địa em ơi
Không trùng lặp nhau đâu giữa dài rộng cuộc đời
Nhưng có điều này giấu nỗi riêng chi chút
Cứ một giờ lại nghỉ mười phút
Tiếng trống trường đã điểm chưa em?
Mười phút cho chung hay mười phút cho riêng
Mà lúc nhớ nhau lại nghĩ về đất nước
Ngày thắng giặc đang tới gần phía trước
Tình yêu nào không nhắc đến ngày mai
Như hai bánh xe hiện tại với tương lai
Cuồn cuộn lăn đi vùn vụt
Rạo rực những giờ sau mười phút
Thời gian đi như một vệt sao dài
Nguồn: Ở hai đầu núi (thơ), Phạm Tiến Duật, NXB Tác phẩm mới, 1981
Có thể bạn thích: