Trong nền văn học Việt Nam, nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng đặc biệt, không chỉ trong nội dung và âm nhạc sáng tác mà ngay cả các văn bản sáng tác của nữ sĩ họ Hồ vẫn còn là những vấn đề đặc biệt, cần tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu. Riêng về cuộc đời riêng tư của nhà thơ, cho đến nay vẫn còn là những dấu hỏi, chưa có một công trình nghiên cứu nào an toàn và đáng an toàn và đáng an toàn và đáng tin cậy cả. Dưới đây là những bài thơ tiêu biểu của bà. Có thể nó rất gần gũi nhưng cũng có thể bạn chưa bao giờ đọc, cùng xem qua một lượt nhé!
Duyên Kỳ Ngộ
Nghìn dặm có duyên sự cũng thành,
Xin đừng lo lắng hết xuân xanh.
Tấc gang tay họa thơ không dứt,
Gần gụi cung dương lá vẫn lành.
Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện,
Trống mang dùi cắp đã phanh phanh.
Tuy không thả lá trôi dòng ngự,
==>Đại ý bài thơ:
chĩnh chện như chễm chệ hay chễm chện: từ gợi tả dáng ngồi nghiêm trang, oai vệ(1) (2) Lý do không nên lo lắng cho duyên phận lỡ làng.(3) (4) Luôn luôn giao lưu với những bạn thơ, cùng nhau xướng họa. Chung đụng với những nam nhân mà vẫn nguyên vẹn-Phẩm chất trong sáng của người phụ nữ.(5) (6) Điển tích hai câu thơ “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ-Vô duyên đối diện bất tương phùng”. Ngày xưa có một giai nhân con của nhà quyền quý kén chồng. Có 3 chàng đến thi tài xin cưới. Chàng học trò phải viết xong một pho sách cổ-Chàng thợ săn phải bắn rụng hết lá trên một cây ngô đồng-Chàng lực sĩ phải chạy ngàn dặm đi lấy một cái trống về. Ai xong việc trước tiên thì được cưới người đẹp. Người đẹp cứ ngỡ chỉ có chàng thợ săn (tên sẵn) hoặc chàng học trò (bút đề) sẽ đạt mục đích vì lá cây rụng gần hết, pho sách cổ cũng sắp hoàn thành, Khi ấy, bất ngờ một hồi trống vang lên-người lực sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ trước tiên. Nhắc lại cụ thể duyên nợ vợ chồng qua hai câu thơ trên.(7) Không thư từ qua lại-Lá thắm: “Sự tích Vu Hựu, người đời Đường Hy Tông bắt được một chiếc lá đỏ từ dòng ngự câu trong cung trôi ra, trên lá có đề thơ. Hựu bèn đề một bài thơ đáp lại rồi đem lên thượng lưu thả xuống, người cung nữ là Hàn Thị bắt được. Sau đó, nhà vua thả cung nữ. Duyên may, Vu Hựu lấy Hàn Thị và nhận ra nhau qua chiếc lá đỏ. Hàn Thị làm một bài thơ có câu: “Phương tri hồng diệp thị lương môi” (Mới biết, chiếc lá thắm làm mai mối giỏi).
Động Hương tích
Bầy đặt kìa ai khéo khéo phòm,
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót,
Con thuyền vô trạo cúi lom khom.
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,
Rõ khéo trời già đến dở dom.
==>Một bài thơ khác của Hồ Xuân Hương tuy chẳng chứa từ xuân, song nó vẫn mang đậm khí vị hội xuân: “Động Hương Tích” là một địa danh chỉ thắng cảnh trung tâm quần thể di tích lịch sử – văn hóa nổi tiếng cả nước. Chùa Hương ở huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, từ ngày 1-8-2008 sáp nhập vào địa bàn thành phố Hà Nội. Chùa ấy là nơi khách thập phương nô nức trẩy hội mỗi dịp xuân về.
Thơ tự tình
Tiếng gà xao xác gáy trên vòm
Oán hận trông ra khắp mọi chòm
Mõ thảm không khua mà cũng cốc
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
Sau hận vì duyên để mõm mòm
Tài tử văn nhân ai đó tá
Thân này đâu đã chịu già tom.
==>Đại ý bài thơ:
Tự Tình lại là một bài thơ hay khác nói về cảm xúc đặc biệt trong lòng cho mỗi người đọc. Nó mang những điều đặc biệt và trong những hình ảnh nói về về một đất nước thái bình, người phụ nữ không phải chịu những đau đớn và tình duyên ngang trái lỡ làng nữa. Điều đó cũng mang đậm những hình ảnh thơ và những hình tượng sâu sắc về một sắc thái nhẹ nhàng, những cảm xúc về sự phẫn uất và cả những sự đồng cảm riêng về con người. Một khát khao lớn về hạnh phúc của tác giả mà khiến ai cũng mong nhớ, khát khao có 1 cuộc tình ấm áp nồng, đầy cảm xúc hình tượng thơ dạt dào và lay chuyển tâm hồn người đọc. Ở đây hình tượng thơ của bà đã mang những nỗi nhớ miên man, sâu sắc vào cho tâm thần của mỗi con người.
Hoạ Nhân
Vài hàng chữ gấm chạnh niềm châu,
Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé lầu.
Lá nhuộm thức lam thêm vẻ thẹn,
Sương pha khói biếc rộn thêm sầu.
Thẩn thơ trước viện, nhà khoe gió,
Đồng vọng bên tai, địch thét đâu,
Ướm hỏi trăng già khe khắc bấy,
Trêu nhau chi những sợi cơ cầu.
==>Theo TS. Phạm Trọng Chánh, bài thơ này được Hồ Xuân Hương viết khi bị mẹ cậy người mai mối gả cho thầy lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nhân có người về Hà Tĩnh. Hồ Xuân Hương gửi bài thơ này. Cũng theo ông, thì bài “Ký mộng” của Nguyễn Du là để đáp lại bài thơ này.
Cảnh thu
Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,
Xanh ôm cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu.
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ.
Ơ hay, cánh cương ưa người nhỉ,
Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ.
==>Ý nghĩa bài thơ theo tôi có hiểu theo nghĩa 1-1 giản đó là:
Cảnh thu tiêu sơ, ngoạn mục, tuyệt vời. Những giọt mưa rơi giữa trời không ngớt, từng giọt, từng giọt đổ xuống từ tàu lá chuối. Dù có bút thần đi chăng nữa cũng không thể nào vẽ lên được cũng không thể nào vẽ lên được cái phong cảnh có chút đượm buồn, 1-1 sơ ấy. Qua hai câu tiếp theo đường nét màu sắc của bức tranh có chút thay đổi. Đó là màu sắc tốt tươi, xanh tốt của cây cổ thụ với tán cây thật tròn. Đó là con sông êm ả lặng lờ trôi, phản chiếu xuống dòng sông là màu trắng của mây trời, trôi mãi.
Sang đoạn tiếp, ý hiểu là người đã chếnh choáng say, cho dù đã có tửu lượng trong người, đã cạn hết bầu rượu bầu dốc, nhưng trước cảnh sắc của thiên nhiên vẫn muốn chấp rượu. Người say không chỉ vì say rượu mà say còn bởi vì cảnh đẹp của giang sơn.
Vấn nguyệt
Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi?
Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm tối cớ sao soi gác tía?
Ngày xanh còn thẹn mấy vầng tròn.
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng mấy nước non?
==>Đại ý: Đó là có thể là lời tâm sự của người con gái mới biết yêu. “Hồ Xuân Hương đã yêu Nguyễn Du rồi sau đó tự vấn lòng mình:
*(1-2)Hỏi vầng trăng muôn thuở, Trải mấy thu nay vẫn hãy còn, những câu hỏi vu vơ, vì sao vầng trăng khi khuyết lại khi tròn.
*(3-4) Hỏi con bạch thố, thỏ bạch trên cung trăng được bao nhiêu tuổi; và chị Hằng Nga bây giờ đã được mấy con…
*(5-6) Đêm tối cớ chi soi duyên nàng đến với Nguyễn Du, con nhà quyền quý ở gác tía lầu son. Khiến cho ngày xanh gặp nhau, thẹn với mặt trời đang lên
.*(7-8) Năm canh lơ lửng trằn trọc nhớ ai, hay đã có tình riêng với nước non
Hỏi Trăng
Một trái trăng thu chín mõm mòm,
Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom!
Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,
Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.
Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,
Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.
Hỡi người bẻ quế rằng ai đó,
Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm.
==> Đại ý bài thơ:
(1-2): Giới thiệu hình ảnh và màu sắc đặc biệt của vầng trăng: Vầng trăng bấy giờ là một quả trăng, chín muồi lâu rồi.Cũng là một khối tròn có cây quế đỏ, đỏ phát ớn.
(3-4-5-6): Những chi tiết của vầng trăng:Ở giữa mặt trăng hình chiếc bích, (tròn dẹt) nên khuôn nó chưa tròn, mà méo đi. Méo (méo:hình tròn lệch, sai đi với hình chuẩn.)Bên ngoài mặt trăng có hai cánh cung khép sâu lại.Bực mình vì người đời đua nhau xói (đâm thẳng vào), móc (dùng tay tìm kiếm hay lấy vật gì trong lỗ ra). Ở đây, xói móc, nghĩa bóng là châm chọc, bung ra những chuyện riêng tư của người khác.Cho nên thằng Cuội cứ đứng khom lưng.
(7-8):Vậy (dám nào), xin hỏi, ai đã là người đã đi bẻ quế?
Ở nơi đó, có một người đẹp như Hằng Nga vẫn còn đang mong mỏi, đợi chờ .
Vịnh cái quạt
Một lỗ xâu xâu mới cũng vừa
Duyên em dính dán tự ngàn xưa
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng:
“Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?”
==> Đại ý bài thơ:
Thơ của Hồ Xuân Hương luôn có nhiều hàm ý, với bài thơ này theo tôi hiểu chung đây là bài thơ miêu tả về về đẹp của người phụ nữ. Nhưng cũng có thể theo Hồ Xuân Hương ý nghĩa trong những bài thơ này là ý khác. Hoặc bà chỉ 1-1 giản miêu tả cái quạt giấy gấp mà thôi…. Nếu đã không thể tìm câu trả lời chính xác từ chính chủ, thôi thì ta… 1-1 giản cứ tin những gì mình nghĩ, cảm nhận cái đẹp theo cách mà ta cảm nhận vậy.
Có thể bạn thích: