Từ bao nhiêu thế hệ qua, tục đi lễ đền chùa của nhân dân Việt Nam đã trở thành một nét truyền thống không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày đặc biệt là vào dịp Lễ Tết. Trong bài viết này TopChuan.com sẽ gợi ý cho bạn những ngôi chùa cầu công danh linh thiêng ở Hà Nội.
Đền Quán Thánh – Đường Thanh Niên, Quán Thánh, Q. Ba Đình
Nằm ở Hồ Tây trong một khuôn viên xinh đẹp rộng lớn, đền Quán Thánh là 1 trong những bốn “Thăng Long Tứ Trấn” của Thăng Long xưa. Đây là 1 trong những những ngôi chùa cổ nhất ở Hà Nội. Nó là một di tích lịch sử và văn hóa được xây dựng vào thế kỷ thứ 11 để thờ thánh Trấn Vũ – vị thần bảo vệ miền Bắc. Trải qua các triều đại, đền Quán Thánh đã được trùng tu nhiều lần, nhưng về cơ bản thì không thay đổi nhiều, và được coi là một quần thể kiến trúc đẹp ngày hôm nay. Đền Quán Thánh là 1 trong những những điểm tham quan nổi tiếng nhất Hà Nội và chỉ có thể du lịch Hà Nội đến đây du khách mới thấy hết vẻ đẹp về kiến trúc và lịch sử vẻ vang của nó. Đền thờ 1 trong những 4 vị thần của “Thăng Long Tứ Trấn”, những vị Thánh bảo vệ ở bốn hướng Đông – Tây – Nam – Bắc của thành cổ Thăng Long. Đền Quán Thánh trấn giữ ở phía Bắc.
Ngôi chùa sở hữu hai lớp: lớp ngoài cao và cửa võng. Cả hai bên đều treo bảng chữ tạc bài thơ của vua Thiệu Trị khắc lên. Trong đó, nổi bật nhất bên trong thánh điện là bức tượng đồng đen của Huyền Thiên Trấn Vũ cao 3.96m và nặng 4 tấn. Bức tượng xuất hiện như một đạo sĩ ngồi. Tay phải cầm một thanh kiếm, được bao phủ bởi một con rắn chống đỡ vào lưng một con rùa (con rắn tượng trưng cho sức mạnh, rùa tượng trưng cho tuổi thọ). Với tính năng chạm khắc tinh vi và khéo léo, bức tượng được đề cập đến như một tác phẩm nghệ thuật phản ánh kỹ thuật đúc đồng và trình độ bậc thầy nghệ thuật tạc tượng của ông cha chúng ta trong thế kỷ 17. Nhờ cách bố trí mặt bằng và không gian hài hòa, đặc biệt là cảnh quan thoáng đãng với Hồ Tây trước, Đền Quán Thánh góp phần tô điểm cho vẻ đẹp thơ mộng của khu du lịch Hồ Tây, Hà Nội. Nó là một di tích quý giá về văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc và điêu khắc, là 1 điểm du lịch ấn tượng khi đến Hà Nội.
Phủ Tây Hồ – Đường Xóm Chùa, Quảng An, Q. Tây Hồ
Phủ Tây Hồ Hà Nội là di tích lịch sử cấp cuốc gia và là nơi vô cùng linh thiêng. Hàng năm có rất đông người tới Phủ Tây Hồ cầu tài cầu lộc cầu bình an. Phủ Tây Hồ Hà Nội được xem là 1 trong những những chốn linh thiêng nhất hệ thống đền chùa ở Hà Nội, thu hút không chỉ những người dân Hà Nội, mà cả những du khách thập phương đến thắp hương cầu phúc. Phủ Tây Hồ thờ Chúa Liễu Hạnh. Trong hệ thống điện thần Việt Nam, Chúa Liễu Hạnh là 1 trong những tứ bất tử (Sơn Tinh, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh Thánh Mẫu), là vị thánh của tín ngưỡng tứ phủ, mà bản chất là tín ngưỡng thờ Mẫu, một tín ngưỡng có cội nguồn lâu đời và độc đáo của Việt Nam.
Các công trình kiến trúc của Phủ Tây Hồ, bao gồm cổng làm kiểu tam quan, kiến trúc chính 3 nếp (Tam tòa thánh mẫu); Phủ chính có quy mô lớn nhất. Mặt trước có cửa tam quan 2 tầng, mái giữa có ghi “Tây Hồ hiển tích”, được trang trí tỉ mỉ, công phu. Bốn cánh cửa giữa phần trên chạm tứ quý, phần dưới chạm tứ linh, giữa chạm đào thọ. Qua tam quan là phương đình 2 tầng, 8 mái. Di tích Phủ Tây Hồ hiện còn lưu giữ được khối di vật khá phong phú mang giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật thuộc thế kỷ XIX, XX như bộ tượng tròn gần 300 pho, hoành phi, câu đối…Đặc sắc nhất là bức đại tự ghi: “Thiên tiên trắc giáng” (Tiên trời xuất hiện) và bức hoành phi ở cửa cung đề: “Mẫu nghi thiên hạ” (làm mẹ của cả thiên hạ). Vào dịp tết đến xuân về, du khách thường đổ về đây rất đông, vì cùng với việc lễ cầu may, họ còn thưởng ngoạn cảnh đẹp Tây Hồ. Được coi là nơi linh thiêng nên phủ Tây Hồ được nhiều người đến cúng lễ và cầu phúc, cầu lộc.
Chùa Phúc Khánh – Cầu vượt Ngã Tư Sở, Thịnh Quang, Q. Đống Đa
Chùa Phúc Khánh còn có tên gọi là chùa Sở, và tên nữa là chùa Thịnh Quang, theo tên địa danh nhân dân thường gọi. Chùa Phúc Khánh hiện nay thuộc phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, Hà Nội, nằm trên phố Tây Sơn, gần Ngã Tư Sở. Hàng năm dòng người đổ về đây chiêm bái, lễ Phật cầu an, dâng sao giải hạn, cầu siêu rất đông. Trong đó tháng giêng là tháng đông nhất, mỗi ngày có hàng nghìn phật tử đổ về đây. Đặc biệt, vào các khóa lễ, phía trong khuôn viên của nhà chùa không còn một chỗ trống. Hàng nghìn người dân đứng kín từ trong chùa tràn ra đến ngoài phố Tây Sơn, lan sang cả Ngã Tư Sở, nhiều người còn chấp nhận đứng xa cả cây số để vái vọng.
Lịch sử lâu đời của ngôi chùa với nhiều công trình kiến trúc cổ kính cũng chỉ là 1 trong những những phần nào đó trong các yếu tố thu hút đông đảo Phật tử đến chùa. Theo những cao niên ở gần chùa Phúc Khánh, còn có nhiều nguyên nhân khác khiến chùa được nhiều người lựa chọn là nơi lễ Phật cầu an, giải hạn… Nhiều người cho rằng, Phúc Khánh là một ngôi chùa thiêng. Khi mọi người tới đây cầu sao giải hạn, cúng, khấn, lễ thì đất nước được ổn định, phát triển giàu mạnh; gia đình thuận hòa, nhận được nhiều phúc đức; đường công danh, sự nghiệp được hanh thông, thuận lợi; con cháu thì đuề huề, sung túc; bản thân thì được an tâm, tĩnh tại…
Chùa Cầu Đông – 38 Hàng Đường, Hàng Đào, Q. Hoàn Kiếm
Dọc phố Hàng Đường ở Hà Nội người qua lại ồn ào, náo nhiệt, người đi đường chẳng mấy ai để ý trên tuyến phố sầm uất đó có một ngôi chùa cổ “lưu trú” vài trăm năm nay, nơi duy nhất thờ vợ chồng quốc sư Trần Thủ Độ, vị quan đầu nhà Trần đã có công giúp vua Trần đánh thắng quân Nguyên. Đó là chùa cầu Đông, ở 38 Hàng Đường. Mặc dù nằm ngay mặt phố Hàng Đường, nơi lúc nào cũng ồn ào người qua lại, chùa cầu Đông vẫn luôn mang vẻ thanh tịnh của chốn linh thiêng. Chùa cầu Đông khá tách biệt với nhà dân. Ngay từ lối vào cổng, khách thập phương dễ dàng cảm nhận được sự yên lặng, linh thiêng của ngôi chùa.
Chùa Cầu Đông là chùa ở cửa đông thành Thăng Long, lại nằm cạnh chợ lớn nhất kinh thành lúc bấy giờ là chợ cầu Đông nên hàng ngày có hàng trăm người qua lại biết đến. Ngôi chùa trở thành chốn tâm linh của nhiều người Hà thành. Ngoài chùa có Tam quan 3 gian lợp ngói, phía sau là 3 gian thờ tổ, hai bên là hai dãy hành lang bao bọc nối liền từ Nhà tổ đến chùa, bên tả có 3 gian Thờ hậu. Trong Chính điện là gian thờ Phật, các tượng trong chùa cũng giống như phần lớn chùa ở miền Bắc, có đủ Tam thế, Di Đà, Thích Ca… Nhưng nét khác biệt của ngôi chùa này là bên cánh phải của Điện chính là kệ thờ quốc sư Trần Thủ Độ và vợ là : Trần Thị Dung. Theo tài liệu nghiên cứu về 1000 năm Thăng Long do nhà văn Tô Hoài và một nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc chủ biên thì chùa cầu Đông là chùa duy nhất ở Hà Nội thờ vợ chồng Trần Thủ Độ, người đã có công dựng nên nhà Trần cai trị đất nước gần hai thế kỷ.
Chùa Cầu Đông không chỉ là một di tích văn hóa của người Hà Nội mà còn là một cơ sở cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Trong kỷ yếu của nhà chùa còn ghi rõ “chùa là cơ sở cách mạng có hầm bí mật giúp đỡ cán bộ hoạt động, nay vẫn còn cửa hầm. Trong kháng chiến chống Mỹ, chùa có đào hầm cho nhân dân trú ngụ”. Hiện chùa cầu Đông đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích văn hóa – lịch sử. Người dân Hà Nội, nhất là những người trong khu phố cổ đều rất tự hào về ngôi chùa.
Chùa Trấn Quốc – Đường Thanh Niên, Yên Phụ, Q. Tây Hồ
Chùa Trấn Quốc nằm trên một hòn đảo phía Đông Hồ Tây (quận Tây Hồ), chùa có lịch sử gần 1500 năm, được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long – Hà Nội. Kiến trúc chùa có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mang. Là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long vào thời nhà Lý và nhà Trần. Với những giá trị về lịch sử và kiến trúc, chùa Trấn Quốc nổi tiếng là chốn cửa Phật linh thiêng, là điểm thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử và khách tham quan, du lịch trong ngoài Việt Nam.
Ngôi chùa cổ nép mình yên tĩnh trên đường Thanh Niên, quận Ba Đình, Hà Nội, theo hệ phái Bắc tông. Tổng thể ngôi chùa là một quần thể gồm nhiều lớp nhà với ba ngôi chính là tiền đường, nhà thiêu công và thượng điện, nối thành chữ Công. Trên cửa chùa vẫn còn hiện lên bút tích ba chữ Phương Tiện môn và cả hai câu đối được viết bằng chữ Nôm đẹp mắt ‘Vang tai xe ngựa qua đường tục/ Mở mặt non sông đứng cửa thiền’.
Bên trong chùa còn lưu giữ rất nhiều mẫu tượng Phật lẫn Bồ tát có giá trị nghệ thuật lớn, trong đó điểm nhấn lớn nhất phải kể đến bức tượng đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn bằng gỗ và được sơn son thiếp vàng. Ngoài ra, các hiện vật khác có ý nghĩa lịch sử, văn hóa và tôn giáo từ thời trước vẫn còn được gìn giữ như 14 tấm bia bằng Hán Nôm. Dạo bước giữa không gian trong lành thoang thoảng hương nhang trầm đang phảng phất, du khách có dịp chiêm ngưỡng cây bồ đề hơn chục năm tỏa bóng mát rượi phủ kín khắp một khoảng chùa. Cây bồ đề được chính tay Tổng thống Ấn Độ tặng trong một chuyến ghé thăm chùa Trấn Quốc vào 24/03/1959. Thả mình vào bức tranh trầm mặc tĩnh lặng của chùa Trấn Quốc, khách du lịch còn có cơ hội khám phá nghệ thuật kiến trúc trên các nét chạm trổ. Nhiều phần của mái ngói lợp chùa đã bị rêu phong phủ kín, nhưng không vì thế mà Trấn Quốc mất đi vẻ đẹp hài hòa của mình, chính điều đó càng làm tăng thêm nét hấp dẫn nhuốm màu thời gian của ngôi chùa linh thiêng ngàn năm.
Chùa Kim Liên – Đường Nghi Tàm, Quảng An, Q. Tây Hồ
Chùa Kim Liên có từ thế kỷ 17, được dựng trên dải đất của làng Nghi Tàm, bên bờ hồ Tây, nay thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ. Du khách có thể theo đường vành đai phía bắc Hà Nội (dọc đê sông Hồng), đến Nghi Tàm thì rẽ xuống ngõ 1 phố Âu Cơ là đến chùa. Theo tấm bia hiện còn trong chùa do Bùi Huy Cận soạn năm 1868 thì chùa vốn có tên là Đại Bi, do vợ chồng ông Nguyễn Thế Hựu là người phường này xuất tiền xây dựng vào năm 1631. Bảy năm sau, nhân dân góp công để mở rộng thêm khu chùa. Đến năm 1771, chúa Trịnh Sâm sai bọn Huy Đĩnh dỡ chùa Bảo Lâm ở phía tây kinh thành về tu bổ lại chùa này và đổi tên chùa là Kim Liên.
Tam quan chùa Kim Liên là một công trình kiến trúc hết sức độc đáo, trông như bông sen đang độ nở trên mặt nước Tây Hồ bốn mùa sóng phủ. Các chi tiết trên gỗ đều được chạm nổi, chạm lộng hình rồng, hình hoa lá tinh xảo, uyển chuyển. Đầu đao mái uốn cong, gắn hình tứ linh bằng gốm nung. Ba chữ sơn son “Kim Liên Tự” nghĩa là “Chùa sen vàng” nằm ở chính giữa cửa chùa. Chùa Kim Liên bố cục đối xứng theo một trục từ Tam quan Đến nhà tô mặt bằng gọn và đẹp. Từ Tam quan dẫn qua một khoảng sàn dẫn vào ba nếp chùa xếp song song theo hình chữ “Tam”. Nếp ngoài là chun Hạ. nếp giữa là chùa Trung, hai nếp chùa này quay mặt về hướng Tây. Riêng chùa ‘Thượng quay mặt. về hướng Đông. Giữa các nếp chùa tạo nên một khoảng trống đủ cho ánh sáng mặt trời lọi qua khúc xạ và phản xạ làm không gian nội thất mờ to thực hư như co lại như không, hợp với triết lý sắc không không của đạo Phật. Mái chưa lộp ngói, cấu trúc hai tầng theo kiểu chồng diêm. Mồi nếp tam mái có tám tấu đao hình rồng uốn cong đam khoe. Chân cột kè trên đá tảng chạm hình hoa sen cách điệu.
Chùa Láng – Phố Chùa Láng, Láng Thượng, Q. Đống Đa
Chùa Láng hiện nay là một di tích lịch sử, chùa nằm tại Phố Chùa Láng, phường Láng Thượng, Q Đống Đa, Hà Nội. Chùa Láng thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh, sống vào thời vua Lý Nhân Tông, tu ở chùa Thiên Phúc trên núi Sài Sơn, thuộc phủ Quốc Oai, Sơn Tây ngày nay. Đồng thời ông cũng là Tăng Đô Sát trong triều đình. Tương truyền ngôi nhà xưa của ông nằm ở phía Nam làng An Lãng, chính là chùa Láng ngày nay. Chùa Láng được xây dựng vào thế kỷ thứ XII, thời vua Lý Anh Tông, còn gọi là chùa Cả, tên chữ Hán là Chiêu Thiền tự. Lý giải của tên chữ này được thể hiện ngay trong văn bia “Tạo lệ” niên đại Thịnh Đức thứ 4 (1656) như sau: Vì có điều tốt rõ rệt nên gọi là Chiêu. Đây là nơi sinh ra Thiền sư đại thánh nên gọi là Thiền. Người Pháp gọi là Pagode des Dames.
Một ngôi chùa mang cái tên đẹp và tao nhã, gắn với khung cảnh vô cùng trữ tình. Cũng trong văn bia Thịnh Đức xưa cũng đã ghi nhận Chiêu Thiền Tự là “danh lam bậc nhất, thế gian không có chùa nào sánh kịp”. Về phong thủy thì “Khí tốt phượng thành bên hữu tỏa khắp, dòng sông Tô Lịch bên tả lượn vòng, Nhị Hà nghìn dặm quanh kinh đô uốn khúc, như rồng xanh lớp lớp chầu về, Tản Viên dãy núi đầy khí đẹp hướng vào, như hổ trắng đàn đàn đến họp”. Quy mô của chùa Láng vừa đủ 100 gian to nhỏ. Trải qua nhiều lần trùng tu, cổng chùa (tam quan) phảng phất hơi hướng nghi môn của cung vua phủ chúa thời Lê trung hưng, bao gồm bốn cột vuông với ba mái nhỏ uốn cong gắn vào sườn cột, mái giữa cao hơn hai mái bên, phía dưới có đôi voi phục hai bên. Hoành phi chính giữa cổng đề 4 chữ “Thiền thiên khải thánh” (trời thiền sinh thánh), bên phải đề “Tuệ Nhật”, bên trái đề “Từ Vân”.
Giá trị kiến trúc nổi bật của ngôi chùa cổ này chính là nhà bát giác hay còn gọi là nhà Bảo Cái. Đây là nơi đặt kiệu Thánh vào trước ngày hội, nằm ở giữa sân chùa, với mái chồng, 2 tầng, 16 mái được lợp ngói vẩy với những đầu đao cong vút, uốn lượn rất thanh thoát. Đỉnh nóc được đắp hoạ tiết 4 con phượng đang múa với đường nét mềm mại. Tầng mái bên trên đắp 8 con rồng cuộn, biểu tượng cho 8 đời vua Lý. Trong không gian cổ thụ giăng đầy, lại hiện lên một công trình hài hòa như vậy, quả không hổ danh Thăng Long đệ nhất tùng lâm
Chùa Hương – Hương Sơn, Mỹ Đức
Chùa Hương là cách nói trong dân gian, trên thực tế chùa Hương hay Hương Sơn là cả một quần thể văn hóa – tôn giáo Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, vài ngôi đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp. Trung tâm chùa Hương nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, nằm ven bờ phải sông Đáy. Trung tâm của cụm đền chùa tại vùng này chính là chùa Hương nằm trong động Hương Tích hay còn gọi là chùa Trong.
Ngày mồng sáu tháng giêng là khai hội. Lễ hội thường kéo dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch. Vào dịp lễ hàng triệu phật tử cùng du khách khắp 4 phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương. Hành trình về một miền đất Phật – nơi Bồ Tát Quan Thế Âm ứng hiện tu hành. Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng riêng đến 18 tháng hai âm lịch. Ngày này, vốn là ngày lễ khai sơn (lễ mở cửa rừng) của địa phương. Đến nay nghi lễ “mở cửa rừng” hàm chứa ý nghĩa mới – mở cửa chùa. Lễ hội chùa Hưng trong phần lễ thực hiện rất đối kháng giản. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút. Chùa chính là chùa Hương Tích, có thể coi đây là một ngôi chùa Thiên tạo vì vốn dĩ chùa là một hang động đá thiên nhiên. Ở lối xuống hang có cổng lớn, trán cổng ghi 4 chữ Hương Tích động môn. Qua cổng là con dốc dài, lối đi xây thành 120 bậc lát đá. Vách động có năm chữ Hán “ Nam thiên đệ nhất động do chúa Trịnh Sâm khắc vào năm 1770 trong dịp đến thăm nơi đây. Trong hang động có nhiều nhũ đá tạo nên những hình thù rất gần gũi và ý nghĩa đối với cuộc sống con người. Chùa nổi tiếng linh thiêng, người ta tin rằng đầu năm lên được động Hương tích thắp nén nhang thành tâm cầu khấn chắc chắn mọi ước nguyện của mình đều trở thành hiện thực. Tiếng lành đòn xa chẳng thế mà mỗi năm chùa Hương đón hàng triệu phật tử về đây chiêm bái, du xuân thưởng ngoạn phong cảnh.
Chùa Hương trở thành một hành trình về với cõi Phật của phật tử và du khách bốn phương, trở thành cảm hứng sáng tác của nhiều nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Mùa xuân sắp đến bạn hãy một lần đến với chùa Hương biết đâu sau chuyến đi bạn cũng sẽ tìm thấy cho mình những cảm hứng mới, nguồn sinh khí và năng lượng mới để bắt đầu 1 năm với nhiều niềm vui và hạnh phúc. Lễ hội chùa Hương là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn … Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. Nét độc đáo của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền vãng cảnh lạc vào non tiên cõi Phật.
Có thể bạn thích: