“Sống chết mặc bay” được xem là tác phẩm thành công nhất của tác giả Phạm Duy Tốn. Truyện được viết vào tháng 7 năm 1918 thể hiện sự tắc trách của quan phụ mẫu làng X dẫn đến cái chết của hàng bao nhiêu con người, nhà cửa, ruộng vườn đều bị thiệt hại nghiêm trọng. Với nghệ thuật tương phản và tăng cấp khéo léo, truyện ngắn đã thành công khi lên án gay gắt tên quan phụ mẫu và bày tỏ niềm thương cảm trước nỗi thống khổ của nhân dân. Mời các bạn đọc tham khảo một số ít bài văn tóm tắt tác phẩm “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn mà TopChuan.com tổng hợp trong bài viết dưới đây để thấy rõ hơn điều đó.
Bài tham khảo số 10
Gần 1h đêm, tại làng X thuộc X nước sông Nhị Hà lên to quá, xem chừng đê vỡ mất. Từ chiều đến giờ hàng trăm con người cố gắng hộ đê, nhưng sức người làm sao địch lại với sức trời, tình cảnh thật là thảm. Ấy vậy mà quan phụ mẫu được cử đi phụ dân hộ đê lại ngồi trong đình vững chãi; nhà hàng ăn uống xa hoa; lại còn say mê đánh bài tổ tôm. Đến khi có người chạy vào báo tin đê vỡ mà y vẫn mặc kệ, thây kệ; còn hách dịch ta đây. Khi hắn hả hê vì ù được ải bài lớn cũng chính là lúc đê vỡ, dân chúng lâm vào cảnh “nghìn sầu muôn thảm”.
Bài tham khảo số 2
Sống chết mặc bay là câu chuyện về sự tắc trách của quan phụ mẫu làng X, thuộc phủ X dẫn đến cái chết của hàng bao nhiêu con người, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn. Bởi trong khi dân chúng khổ cực, vất vả giữ đê ngăn nước lũ từ sông Nhị Hà thì quan phụ mẫu vẫn say sưa với ải bài tổ tôm trong cái đình cao và vững chãi, mặc kệ dân chúng ngoài kia.
Bài tham khảo số 4
Gần một giờ đêm, trời mưa như trút nước khiến cho nước sông Nhị Hà dâng lên nhanh, khúc đê làng X phủ X có nguy cơ vỡ. Trong khi hàng trăm phu phen, con dân đang oằn mình chống lũ, huy động của cải sức người để bảo vệ đê, thì ở ngôi đình cao ráo, vững chãi cách đó không xa, tên quan phụ mẫu với trách nhiệm giúp dân hộ đê đang ngồi đó đánh bài với lũ sai nha. Hắn đi hộ đê mà mang theo biết bao vật dụng quý hiếm, đồ ăn ngon. Mặc cho có người báo đê vỡ, hắn vẫn vô cảm, điềm nhiên say sưa với ải bài, thậm chí còn quát mắng, đòi bỏ tù người vào bẩm báo. Đúng lúc quan ù to ải bài cũng là lúc đê vỡ, nước tràn khắp nơi cuốn trôi nhà cửa, của cải, “kẻ sống không nơi ở, kẻ chết không nơi chôn”.
Bài tham khảo số 1
Trời đã về đêm, khúc đê yếu với hai ba đoạn đã bị thẩm lâu đã không còn trụ được mà nước vẫn cứ dâng cao, mưa vẫn cứ tầm tã. Nhân dân trong hoàn cảnh nguy khốn đã dùng hết mọi sức lực, khẩn trương, vất vả để cứu lấy làng mạc, nhà cửa. Trong khi đó, “phụ mẫu” của dân- những con người chốn ải đang tấp nập, vui vẻ chơi tổ tôm với những đồ ăn và thứ đồ chơi xa xỉ. Nguy cơ vỡ đê càng gần, lính canh rồi con dân càng đến thông báo, van xin thì lúc ấy, ải bài của quan lại càng lớn, càng giục giã và không quan tâm. Đến khi quan ù ải bài lớn cùng là khi nhân dân rơi vào tình cảnh thảm sầu không kể xiết trong cảnh đê vỡ: “khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn”.
Bài tham khảo số 5
Phạm Duy Tốn (1883 – 25 tháng hai năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành một nhà văn, nhà báo, ông từng là thông ngôn ở toà Thống sứ Bắc Kỳ. Truyện ngắn Sống chết mặc bay của ông được coi là truyện ngắn đầu tiên theo lối tây phương của văn học Việt Nam. Ngoài tên thật Phạm Duy Tốn, ông còn viết với các bút danh Ưu Thời Mẫn, Đông Phương Sóc, Thọ An. Một trong những người con của Phạm Duy Tốn là nhạc sĩ nổi tiếng Phạm Duy.
Sống chết mặc bay là một tác phẩm của nhà văn Phạm Duy Tốn, được đăng trên tạp chí Nam Phong số tháng 12 năm 1918. Đây là 1 trong những những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của ông. Tác phẩm đã nói lên sự phê phán của ông đối với chế độ phong kiến Việt Nam với đại diện là viên quan phủ đã không niềm nở đến sinh mệnh của những người dân dưới quyền đang phải vật lộn với mưa lũ.
Bài tham khảo số 8
Nửa đêm, ở làng X thuộc phủ X, nước sông Nhị Hà ngày 1 dâng cao khiến khúc đê có nguy cơ vỡ. Trong lúc người dân đang cố giữ đê thì Quan phụ mẫu – kẻ được cử đi để giúp đan hộ đê lại đi chơi tổ tôm với đám nha lại trong đình. Hắn ung dung chơi bài cùng với bao kẻ hầu người hạ ngồi bên cạnh, lại còn mang biết bao đồ đạc quí hiếm để đi hộ đê. Y mải miết chơi tổ tôm đến mức không biết gì đến những tiếng kêu, tiếng tù và của dân phu và bao người dân ở ngoài đê. Ngay cả khi có người vào báo đê vỡ nhưng hắn lại mắng chửi rồi ung dung chơi bài tiếp. Cuối cùng, khi đê đã vỡ, người dân lâm vào cảnh muôn sầu nghìn thảm cũng là lúc quan phụ mẫu cười sung sướng, hả hê khi ù ải bài lớn.
Bài tham khảo số 7
Mưa tầm tã, nước sông Nhị Hà lên to. Gần một giờ đêm khúc đê làng X, phủ X cũng thế, hai ba đoạn thẩm lậu, không khéo thì vỡ mất. Hàng trăm người dân phu từ liều đến giờ bì bõm trong mưa, nào đắp, nào cừ, ẩm như chuột lột. Tiếng trống liên thanh, tiếng ốc vô hồi, tiếng người xa xứ gọi nhau sang hộ. Mưa càng dữ, nước sông càng cuồn cuộn bốc lên.
Trong khi ấy, cách nơi hộ đê chừng bốn năm trăm mét, trong đình cao ráo vững chãi, quan phụ mẫu đang chễm chệ ngồi trên một chiếc sập. Đèn thắp sáng trưng, xung quanh chỗ quan ngồi bày ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà,… bát yến hấp đường phèn khói bay nghi ngút. Kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Quan phụ mẫu đang chơi bài tổ tôm với thầy Đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì, chánh tổng sở. Lính lệ khoanh tay đứng hầu, nghi vệ tôn nghiêm như thần như thánh. Tiếng cười nói vui vẻ, dịu dàng. Quan cứ ung dung.
Mặc, dân chẳng dân thì chớ. Lúc ngài vừa xơi xong bát yến, đang vuốt râu, rung đùi, mắt đang mãi trông đĩa nọc, bỗng ngoài xa làng kêu vang trời dậy đất. Mọi người giật nẩy mình, quan vẫn hiển nhiên – Quan đang chờ ù ải bài to. Có người khẽ nói: “Bẩm, đê có khi đê vỡ!”. Quan gắt: “Mặc đê” Quan sốt ruột giục người bốc bài. Bỗng nước ào ào như thác chảy xiết, tiếng cười kêu rầm rĩ, rồi lại có tiếng gà, chó, trâu, bò kêu vang tứ phía. Trong đình, ai lấy nôn nao sợ hãi. Thốt nhiên có người nhà quê lấm láp, ẩm đẫm chạy xông vào đình báo đê vỡ mất rồi. Quan lớn đỏ mặt tía tai, quát: “Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Quan sai lính đuổi cổ người nhà quê ra. Thầy đề xóc bài, tay run cầm cập… Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to. Rồi ngài xoè bài vừa rời vừa nói: “Ù, Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày!”
Quan ù ải bài to. Khắp nơi miền đê, nước tràn lênh láng, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn.
Bài tham khảo số 3
Gần 1h đêm, tại làng X thuộc phủ X nước sông Nhị Hà lên to quá, xem chừng đê vỡ mất. Từ chiều đến giờ hàng trăm con người cố gắng hộ đê, nhưng sức người làm sao địch lại với sức trời, tình cảnh thật là thảm. Ấy vậy mà quan phụ mẫu được cử đi phụ dân hộ đê lại ngồi trong đình vững chãi vừa ăn vừa uống lại còn đánh bài tổ tôm. Đền khi có người chạy vào báo tin đê vỡ mà y vẫn mặc kệ; còn hách dịch ta đây. Khi hắn hả hê vì ù được ải bài lớn cũng chính là lúc đê vỡ, dân chúng lâm vào tình cảnh thảm sầu.
Có thể bạn thích: