Truyện cổ tích thế giới là một thể loại văn học tự sự dân gian theo xu hướng chứa đựng các tình tiết hư cấu. Và được phân chia thành 3 thể loại là: truyện cổ thần kỳ, truyện cổ thế sự và truyện cổ loài vật. Truyện cổ tích Thế Giới phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi. Giúp khơi gợi trí tưởng tượng phong phú, cũng như rút ra nhiều bài học bổ ích. Và hôm nay hãy cùng TopChuan.com tìm hiểu các câu chuyện cổ tích thế giới hay nhất dành cho bé trong bài viết dưới đây.
Hoàng tử lừa
Ngày xửa ngày xưa, có một ông vua và hoàng hậu sống trong giàu sang tới mức, muốn gì cũng có, chỉ duy một nỗi không có con.
Hoàng hậu than thở ngày đêm và nói:
– Mình như thửa ruộng không có cây mọc!
Cuối cùng trời cũng thương tình, thuận cho sinh được một mụn con, nhưng nó chẳng giống những đứa trẻ khác, mà lại là một con lừa con. Khi nhìn thấy con lừa con, hoàng hậu than khóc om sòm, thà đừng có con còn hơn là có con lừa này và sai gia nhận tính đem ném nó xuống sông làm mồi cho cá.
Nhà vua nói:
– Không được, nếu trời cho vậy thì nó phải là con của ta và là người thừa kế ngai vàng sau khi ta khuất núi, nó sẽ đội vương miện trên đầu.
Con lừa được nuôi nấng chăm sóc cẩn thận nên lớn lên trông thấy. Hai tai nó vểnh lên thẳng đứng. Con lừa vui tính, nhảy tung tăng chơi đùa, đặc biệt nó rất thích nghe âm nhạc. Có lần nó tới chỗ người nhạc sĩ lang thang nổi tiếng và nói:
– Hãy dạy cho tôi cách đánh đàn để tôi có thể đánh được những bản nhạc hay như nhạc sĩ lang thang.
Người nhạc sĩ lang thang đáp:
– Trời ơi, mi làm sao mà học được. Ngón chân mi sinh ra đâu có phải để đánh đàn, nó to ơi là to! Ta chỉ sợ dây đàn không chịu nổi.
Cho dù bị thoái thác, nhưng lừa vẫn cứ khăng khăng đòi theo học và bền gan, chăm chỉ học đàn. Cuối cùng nó chơi đàn cũng hay như nhạc sĩ lang thang kia.
Có lần con lừa đi dạo chơi, nó tới gần một giếng nước. Nó cúi xuống nhìn thì thấy bóng mình là bóng con lừa. Nó rất buồn, nó tính đi chu du thiên hạ, nó đem theo một người hầu trung thành. Cả hai lên đường, đường gập ghềnh đồi núi, cuối cùng cả hai tới một vương quốc nơi có ông vua đã già, nhưng chỉ có một công chúa xinh đẹp, đồng thời là người con duy nhất. Tới trước hoàng cung, lừa nói:
– Chúng ta sẽ dừng chân ở nơi này.
Lừa ta gõ cổng hoàng cung và nói:
– Có khách tới, mở cửa cho khách vào nhé.
Đợi mãi không thấy cổng mở, lừa ta ngồi xuống, lấy đàn và dùng hai chân trước gảy đàn. Nghe tiếng đàn du dương, người gác cổng chạy vào tâu với nhà vua:
– Ngoài cổng hoàng cung có một con lừa đang ngồi gảy đàn, nó chơi hay như một nhạc sĩ lang thang cừ khôi.
Nhà vua phán
– Thì mở cổng thành cho nhạc sĩ lang thang vào.
Lừa bước vào hoàng cung, dùng hai chân trước gảy đàn, cả hoàng cung cười ồ lên vì tiếng đàn do lừa đánh. Lừa ta được dẫn vào ăn cùng đám gia nhân, lừa không chịu và nói:
– Tôi đâu có phải là loại lừa vẫn nhốt trong chuồng, tôi là loại lừa quý tộc.
Mọi người nói:
– Nếu thế thì cho ăn chung với lính tráng.
Lừa đáp:
– Không, tôi thích ngồi bên cạnh nhà vua.
Nhà vua cười và nói:
– Cũng được, nếu thích thế thì hãy lại đây ngồi.
Sau đó nhà vua hỏi lừa:
– Lừa ơi, mi có ưng công chúa không?
Lừa quay lại phía công chúa nhìn, rồi gật đầu nói:
– Thưa có ạ, thần chưa thấy ai đẹp như thế.
Nhà vua bảo:
– Nếu vậy thì hãy lại ngồi bên cạnh công chúa.
Lừa thưa:
– Thần cũng mong được như vậy.Lừa lại ngồi bên cạnh công chúa và ăn uống nom rất lịch thiệp.
Ở hoàng cung một thời gian, lừa quý tộc nghĩ:
– Những cái đó cũng chẳng giúp ích gì, ta trở về nhà thôi.
Lừa lững thững cúi đầu tới chỗ nhà vua và xin được cáo từ hoàng cung. Lâu nay nhà vua vẫn quý mến lừa nên nói:
– Lừa ơi, sao vậy? Nom mi buồn rười rượi, hãy ở lại bên ta, ta cho mi tất cả những gì mi muốn, có thích vàng không?
Lừa lắc đầu đáp:
– Không.
– Thế mi có thích ngọc ngà, châu báu không?
– Không.
– Ta cho mi nửa giang sơn này đấy, thế có ưng không?
– Chà, cũng không ạ!
Nhà vua nói:
– Thế mi vui sướng bởi cái gì nhỉ? Có thích lấy công chúa xinh đẹp không
– Thưa vâng ạ. Điều đó thì thực lòng tôi thích.
Lừa ta vui tính hẳn lên, vì đó chính là điều nó mong ước. Đám cưới được tổ chức rất to và hết sức trang trọng. Đến tối, cô dâu và chú rể được dẫn tới phòng tân hôn. Nhà vua muốn biết cách cư xử của lừa nên để cho một gia nhân nấp ở trong phòng.
Khi đã vào trong phòng, chú rể ngó quanh một lượt. Khi tin là chỉ có hai người trong phòng, chàng ra cài then cửa. Rồi chàng vứt bỏ tấm da lừa trên người. Chú rể hiện nguyên hình là một hoàng tử khôi ngô tuấn tú. Chàng nói:
– Giờ em thấy đó, anh cũng xứng vai phải lứa với em.
Cô dâu tươi cười ôm choàng lấy chú rể hôn với cả tấm lòng thương yêu. Nhưng khi trời vừa hửng sáng, chàng lại choàng tấm da lừa. Có lẽ chẳng ai biết được, cái gì ẩn giấu trong tấm da lừa kia.
Sáng vua cha tới thăm con gái, vua hỏi:
– Con lừa có vui tính không. Chắc con buồn phiền lắm nhỉ! Đó chẳng phải là một trang nam nhi thực thụ.
– Thưa vua cha, không, con không buồn. Con rất yêu quý anh ấy. Con muốn suốt đời ở bên anh ấy, con người tuyệt vời.
Nhà vua rất đỗi ngạc nhiên, tên gia nhân liền kể cho nhà vua những gì mình chứng kiến. Nhà vua nói:
– Không thể có chuyện đó được.
– Nếu vậy nhà vua cứ thức đêm để tận mắt xem những gì xảy ra. Nhà vua nên vứt ngay tấm da lừa vào trong lửa hồng để cho phò mã hiện nguyên hình.
Nhà vua nói:
– Lời khuyên của ngươi hay đấy.
Đêm khuya, khi cả hai đang ngủ say, nhà vua lẻn vào xem. Dưới ánh trăng, nhà vua thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú nằm bên công chúa, tấm da choàng để ngay sát bên giường. Nhà vua cầm tấm da ném vào ngọn lửa hồng và đứng đợi cho tới khi tấm da cháy hết chỉ còn lại tro. Nhà vua thức thâu đêm tới sáng để xem khi bị mất tấm da choàng thì phò mã sẽ ứng xử như thế nào.
Khi trời hửng sáng, chàng trai thức giấc, tính lấy tấm da choàng nhưng chẳng tìm thấy. Chàng hoảng hốt, than vãn:
– Thế thì chỉ còn cách trốn khỏi nơi này!
Chàng vừa mới bước ra thì gặp ngay nhà vua. Nhà vua nói:
– Con đi đâu mà vội vã thế. Con đang nghĩ gì vậy? Con hãy ở lại đây! Cha cho con nửa giang sơn này, và sau khi cha khuất núi thì cả giang sơn này là của con.
– Con mong rằng, bắt đầu tốt sẽ kết thúc tốt đẹp. Con ở lại đây với cha.
Nhà vua chia cho phò mã nửa giang sơn. Năm sau thì nhà vua băng hà. Phò mã cai trị cả giang sơn rộng lớn. Sau khi vua cha phò mã băng hà, phò mã được thừa kế cả giang sơn ấy nữa, và sống trong giàu sang phú quý.
Cô dâu đích thực
Ngày xửa ngày xưa có một cô gái trẻ xinh đẹp, nhưng mẹ mất sớm. Dì ghẻ kiếm mọi cớ để hành hạ cô. Việc gì nặng nhọc, khó khăn thì mẹ kế bắt cô làm, cô gắng hết sức mình làm cho xong việc, nhưng không bao giờ người dì ghẻ ác cảm đó bằng lòng, mụ vẫn hoạnh họe là làm không tốt! Cô càng chịu khó làm việc thì mụ càng giao việc nhiều. Mụ còn tìm cách giao cho cô những việc nặng hơn, khiến cô sống vô cùng khổ sở.
Một hôm, mụ bảo:
– Đây là năm ký lông vũ, mày đem tước hết tơ lông ra cho sạch sẽ. Nếu tối nay mày làm không xong thì một trận đòn sẽ chờ mày. Đừng có tưởng suốt ngày chây lười là xong!
Cô gái đáng thương ngồi tước lông vũ, nước mắt chảy tuôn hai hàng trên má, vì cô biết rằng việc này 1 ngày không thể nào làm xong được.
Ngồi trước đống lông vũ, cô thở dài hoặc lóng ngóng mà đập hai tay vào nhau, lông bay tứ tung, và cô phải chọn lại từ đầu. Lo sợ, cô chống khuỷu tay lên bàn, hai bàn tay ôm lấy mặt mà kêu lên:
– Lẽ nào ở trên đời này, không có ai thương hại tôi sao?
Chợt cô nghe thấy một giọng nói ấm áp:
– Con của ta, con đừng lo! Ta tới giúp con đây
Cô gái ngẩng đầu lên thì thấy một bà lão đứng cạnh mình, bà thân thiết nắm tay cô và nói:
– Con hãy tin ở nơi ta. Kể cho ta nghe, trong lòng con có điều gì buồn!
Nghe giọng nói thân tình của bà lão, cô gái thật thà kể hết về cuộc sống bi thảm của cô, rằng cô đã nhẫn nhục làm hết việc nặng nhọc này tới việc nặng nhọc khác, nhưng với việc lần này quả thực là cô không làm nổi, cô nói
– Nếu tới tối hôm nay con không tước xong số lông vũ này thì bà mẹ kế sẽ đánh con. Bà ta đã dọa như vậy, con biết tính bà ta nói là làm!
Cô nói, mà nước mắt chảy hai hàng. Bà lão tốt bụng nói:
– Con của ta chớ lo. Con cứ nghỉ đi, trong lúc con nghỉ bà sẽ làm xong cho con.
Cô gái nằm xuống giường, rồi thiu thiu ngủ. Bà lão ngồi xuống bên chiếc bàn chất đầy lông vũ, giơ bàn tay gầy guộc lướt nhè nhẹ đụng lên trên đống lông vũ là đã tước xong toàn bộ năm kí lông vũ.
Khi cô gái tỉnh giấc, một đống lông tơ trắng muốt đã chất cao ở đó. Phòng đã quét dọn sạch sẽ, tươm tất, còn bà lão thì không thấy đâu nữa.
Cô gái cảm tạ thượng đế, yên lặng ngồi ở đó cho tới tận tối.
Bà mẹ kế quay về, thấy công việc đã xong thì hết sức kinh ngạc, nói:
– Quân chây lười thấy chưa! Chỉ cần chịu khó thì việc gì mà chẳng làm xong. Lẽ nào mày không tìm thêm việc mà làm à? Tại sao vẫn ngồi ở đó, hai tay thủ vào trong lòng!
Khi bước ra khỏi phòng mụ còn lẩm bẩm:
– Quân súc sinh này ăn tốn, phải giao tiếp cho nó việc nặng hơn mới được!
Sáng sớm hôm sau, mụ dì ghẻ gọi cô gái tới và nói:
– Mày cầm lấy chiếc gàu tát nước này, tát hết nước ao cạnh vườn hoa. Tới tối mà không tát cạn, thì mày biết hậu quả sẽ là gì rồi!
Cô gái nhận chiếc gàu thì phát hiện ra đó là chiếc gàu thủng. Dù gàu không thủng thì cũng không thể tát cạn nước trước khi trời tối!
Cô gái bắt tay ngay vào việc. Cô tát nước, mà nước mắt chảy hai hàng. Giữa lúc đó bà lão tốt bụng lại xuất hiện. Sau khi biết nguyên nhân khiến cô gái đau khổ, bà lão nói:
– Con cứ yên tâm! Con vào trong bụi cây thấp kia mà nằm nghỉ, ta giúp con làm xong việc này.
Khi chỉ còn lại một mình, bà lão chỉ chạm tay vào mặt nước là nước đã bốc hơi bay lên không trung, lẫn vào trong đám mây. Nước ao dần dần cạn hết. Khi mặt trời lặn cô gái thức giấc, tới bên ao thì chỉ thấy có cá ở trong ao đang quẫy nhảy trong bùn. Cô chạy tới chỗ bà mẹ kế, báo rằng công việc đã làm xong. Mặt trắng bệch vì tức giận, mụ nói:
– Đúng ra mày phải làm xong từ lâu mới phải!
Mụ ta lại nghĩ kế mới để hành hạ cô gái. Sáng sớm ngày thứ ba, mụ nói:
– Mày hãy xây một cung điện tráng lệ ở chỗ kia, tới tối nhất định phải làm xong!
Cô gái vô cùng kinh hoàng nói:
– Cung điện lớn như thế, con làm sao mà hoàn thành được!
– Tao không cho phép mày cãi lại! Dùng gàu thủng cũng tát cạn được ao, thì cũng xây được một cung điện. Ngay trong ngày hôm nay tao muốn dọn vào ở, nếu thiếu thứ gì ở trong đó, cho dù là một vật nhỏ ở nhà bếp, hoặc ở dưới hầm nhà cũng không được. Nếu không làm xong thì mày đã biết rồi đấy, cái gì chờ mày!
Nói xong, mụ đuổi cô gái ra. Cô gái vào tới thung lũng thì nhìn thấy ở nơi đó toàn là những tảng đá xếp thành từng lớp chồng lên nhau. Có lấy hết sức cô cũng chẳng nhấc nổi được tảng đá nhỏ nhất. Cô ngồi xuống khóc nức nở, chờ mong bà lão tốt bụng lại tới. Cô chẳng phải chờ lâu, bà lão tốt bụng tới và an ủi cô gái:
– Con tới bóng cây mà ngủ. Ta giúp con xây xong cung điện. Nếu con thích cung điện đó, thì con có thể sống ở trong cung điện ấy!
Cô gái đi rồi, bà lão đưa tay sờ lên những tảng đá xám, lập tức những hòn đá đó chuyển động, xếp lại với nhau, chồng lên nhau… cứ như có người khổng lồ đang xây. Cung điện cứ hình thành dần lên tựa như có vô số bàn tay vô hình bận rộn với việc xây dựng, đặt đá chồng lên nhau. Mặt đất ầm vang tiếng xây dựng. Những chiếc cột trụ từ từ mọc lên theo hàng, theo lối. Ngói trên mái cũng tự động lợp lên ngay ngắn. Tới trưa, thì cờ chỉ hướng gió dựng đứng trên đỉnh tháp, giống như mái tóc vàng dài của thiếu nữ bay phần phật theo gió. Tới tối thì việc xây dựng bên trong cung điện cũng hoàn thành.
Bà lão đã làm tất cả những việc đó thế nào, tôi không rõ, nhưng trên các bức tường đều có phủ nhung lụa. Trên các ghế là các tấm đệm thêu hoa văn đẹp. Xung quanh chiếc bàn – mặt bàn làm bằng đá hoa cương và những chiếc ghế bành được trang trí tinh xảo. Chùm đèn pha lê treo trên trần nhà soi bóng trên nền nhà, có những con vẹt xanh ở trong những chiếc lồng bằng vàng ròng, lại còn rất nhiều loài chim lạ, cất tiếng hót líu lo, nghe rất vui tai. Cung điện nguy nga, tráng lệ như đang đón chờ nhà vua bước vào.
Mặt trời vừa lặn thì cô gái tỉnh lại. Hàng ngàn vạn ánh nắng chiếu vào mặt cô gái. Cô rảo bước qua cổng để vào cung điện. Trên bậc thềm trải thảm đỏ, tay vịn làm bằng vàng, đây đó trang hoàng bằng những chậu hoa.
Cô gái đứng ngẩn người ra, khi nhìn thấy gian phòng lộng lẫy. Nếu như cô không chợt nhớ tới người mẹ kế thì ai mà biết được cô còn đứng đó bao lâu. Cô lẩm bẩm nói với mình:
– Nếu như lần này mà bà ta thỏa mãn thì mình sẽ không phải sống những ngày khốn khổ!
Cô gái trở về nhà báo cho mẹ kế biết là cung điện đã xây xong. Mụ ta nói:
– Ta phải tới ngay mới được!
Mụ ta vừa nói vừa đứng phắt ngay dậy.
Mụ ta bước vào cung điện, ánh sáng đèn làm mụ lóa mắt, phải dùng tay che. Mụ bảo cô gái:
– Mày làm những thứ này thật quá dễ dàng. Đáng lẽ tao phải giao việc khó hơn!
Mụ ta đi hết lượt qua các phòng, xem xét mọi góc trong nhà xem còn thiếu gì không. Với cặp mắt hằn học xói vào cô gái, mụ nói!
– Nào, đi xuống, còn phải kiểm tra nhà bếp và hầm nhà. Nếu mày quên thứ gì thì sẽ không thoát khỏi bị trừng phạt đâu!
Lửa cháy rực trong lò, các nồi đang nấu thức ăn, còn trên tường treo đủ loại dụng cụ phục vụ cho việc nấu ăn, tất cả đều sáng loáng. Mọi thứ đều có, nào là rỏ than, thùng chứa nước, chẳng thiếu một thứ gì cả. Mụ ta hỏi:
– Cửa xuống hầm nhà đâu? Nếu trong hầm nhà không xếp đầy thùng rượu thì mày sẽ gặp họa đấy!
Mụ tự đẩy cửa hầm nhà, đi xuống, nhưng mới đi được hai bậc thì cánh cửa quay của hầm do chỉ có gá tạm, nên đã đổ sập xuống.
Cô gái nghe tiếng kêu cứu, vội lại nâng cửa hầm lên, ta, nhưng bà ta đã bị cửa đè, nằm chết tại chỗ!
Thế là cung điện tráng lệ thuộc về cô gái. Thoạt đầu cô cũng chẳng biết là mình đã có hạnh phúc đó. Trong các tủ lớn treo những bộ quần áo tuyệt đẹp. Trong các rương chứa đầy vàng bạc châu báu. Mọi ước vọng của cô đã thành hiện thực.
Tin về cô gái xinh đẹp, giàu có lan truyền nhanh chóng đi khắp nơi. Ngày nào cũng có người tới xin cầu hôn, nhưng cô gái chưa ưng ý ai cả. Cuối cùng, một vị hoàng tử đã tới cầu hôn. Lòng cô rạo rực vui mừng. Thế là họ đính hôn với nhau.
Trong vườn của cung điện có một cây sồi xum xuê. Một hôm ngồi ở gốc sồi trò chuyện tâm tình, hoàng tử đã nói với cô gái:
– Anh phải trở về để xin vua cha cho phép chúng ta kết hôn. Anh mong nàng chờ ở dưới cây này, mấy giờ sau anh sẽ quay lại.
Cô gái hôn vào má trái của hoàng tử và nói:
– Chàng hãy hứa với em, chớ để ai hôn vào má bên kia. Em sẽ đợi ở dưới cây sồi này, chờ chàng quay lại.
Cô gái ngồi chờ dưới tán cây sồi, hoàng hôn đã xuống mà chẳng thấy chàng quay lại. Cô gái vẫn chờ suốt ba ngày đêm nữa mà cũng chẳng thấy tăm hơi chàng. Ngày thứ tư, vẫn không thấy chàng quay lại, cô nói:
– Chàng nhất định đã gặp phải chuyện gì bất hạnh rồi. Mình phải đi tìm chàng. Tìm cho bằng được mình mới quay trở về!
Cô gái mang theo một túi châu báu và ba bộ váy áo thêu đẹp nhất: một bộ có thêu những ngôi sao sáng lấp lánh, một bộ thêu mặt trăng màu sáng bạc, bộ thứ ba thêu những tia nắng mặt trời vàng rực. Cô gái đi khắp nơi dò tin về người chồng chưa cưới, nhưng chẳng có ai nhìn thấy chàng, cũng chẳng ai biết chàng ở đâu. Cô cứ lang thang khắp chân trời góc biển, nhưng vẫn chẳng tìm thấy chàng. Cuối cùng, cô đến nhà một người nông dân, xin làm người chăn nuôi gia súc cho họ. Cô gái giấu những bộ quần áo và châu báu của mình ở dưới một tảng đá.
Giờ đây cô gái bắt đầu cuộc sống của một người chăn gia súc. Hàng ngày chăn gia súc, trong lòng cô đầy nỗi sầu nhớ người yêu của mình.
Có một con bê quấn quýt cô, và cô gái vẫn thường dùng tay đưa thức ăn cho nó. Mỗi khi cô nói:
Bê dễ thương, bê dễ thương ơi, nằm xuống đi!
Mi đừng có quên ta – người mục đồng,
Như hoàng tử quên người vợ chưa cưới của chàng
Để nàng ngồi chờ mong dưới cây sồi!
Thì con bê dễ thương nằm xuống cho cô vuốt ve.
Cô gái sống cô độc và buồn bã mấy năm, ngày kia ở đất nước nơi cô trú ngụ có tin lan truyềm: công chúa sắp cử hành hôn lễ.
Con đường tới cung điện của vua đi qua làng cô gái đang ở. Một hôm, khi cô đang chăn bò thì chú rể cưỡi ngựa qua con đường đó, chàng không nhận ra cô, nhưng cô gái thì nhận ngay ra chú rể chính là người yêu của mình, và lòng thấy đau như dao cắt. Cô nói:
– Ôi! Mình nghĩ, chàng vẫn chung thủy, nhưng chàng đã quên mất mình rồi!
Ngày hôm sau, chú rể lại đi qua con đường đó. Khi chàng trai tới gần, cô gái nói với con bê:
Bê dễ thương, bê dễ thương ơi, nằm xuống đi!
Mi đừng có quên ta – người mục đồng,
Như hoàng tử quên người vợ chưa cưới của chàng
Để nàng ngồi chờ mong dưới cây sồi.
Chàng trai nghe thấy những âm thanh đó, bất giác cúi đầu xuống nhìn, rồi ghìm cương ngựa, nhìn kỹ cô gái chăn bò, sau đó đặt tay lên trán, như muốn nhớ lại điều gì. Nhưng rồi chàng lại phóng đi, lát sau đã khuất nẻo.
– Thế là chàng đã không nhận ra mình!
Cô gái thốt lên và từ đó về sau lại càng đau khổ hơn.
Không bao lâu sau có tin lan truyền, trong cung điện của vua sẽ có lễ hội tưng bừng ba ngày liền, trăm họ trong nước đều được mời dự. Cô gái nghĩ:
– Đây là cơ hội cuối cùng để mình thử xem!
Tối đến, cô tới chỗ tảng đá ấy, lấy ra bộ váy áo thêu tia nắng mặt trời vàng rực, mặc vào người, và lấy châu báu ra để trang điểm, rồi choàng khăn lên đầu, chỉ để cho đuôi tóc dài thõng xuống. Sau đó, cô gái đi vào hoàng cung. Trời tối, nên không ai chú ý tới cô. Khi cô gái bước vào gian phòng lớn rực rỡ ánh đèn, mọi người đều ngạc nhiên nhường đường cho cô, nhưng không người nào biết cô là ai. Hoàng tử bước tới phía cô nhưng không nhận ra cô. Chàng khiêu vũ cùng cô gái, và đắm say trước sắc đẹp của cô mà quên cả cô dâu. Khi vũ hội vừa kết thúc, cô gái liền đi lẫn vào trong đám người đông đúc về làng. Khi trời sáng, cô đã kịp thay bộ quần áo của người mục đồng.
Hôm thứ hai, cô lấy ra bộ váy áo thêu mặt trăng sáng bạc và một cái trâm gắn toàn ngọc thạch hình trăng lưỡi liềm gài lên mái tóc. Khi cô xuất hiện ở vũ hội, ánh mắt mọi người lại nhìn cả về phía cô. Hoàng tử bước nhanh tới đón cô, cùng cô khiêu vũ, mà chẳng nhìn ngó tới ai khác. Trước khi cô gái rời khỏi nơi đó, cô hứa với hoàng tử, tối thứ ba cũng tới tham dự vũ hội.
Khi cô gái xuất hiện lần thứ ba, thì trên mình cô mặc bộ váy áo thêu những ngôi sao lấp lánh, trâm cài và dây lưng gắn những ngôi sao lấp lánh, trâm vài và dây lưng gắn những ngôi sao bằng đá quý. Hoàng tử đã chờ cô từ lâu, vội bước tới đón cô, và hỏi:
– Tôi muốn biết nàng là ai? Hình như tôi đã quen nàng từ rất lâu rồi!
– Chàng còn nhớ không, khi chàng cùng em chia tay, em đã làm gì?
Nói xong, nàng bước tới và hôn vào má phải của chàng. Hoàng tử bỗng bừng tỉnh, nhận ra nàng chính là cô dâu đích thực. Chàng nói với cô gái:
– Nào, chúng ta chẳng cần ở lại đây nữa!
Chàng nắm tay cô gái đi ra xe ngựa, xe ngựa chạy nhanh về cung điện huyền diệu xưa kia của nàng. Ánh đèn sáng rực rỡ chiếu xuyên qua cửa sổ tới mãi tận nơi xa.
Họ đi qua cây sồi thấy những con đom đóm bay như múa trong lùm cây, cành cây đung đưa như vẫy chào, cây sồi tỏa ra hương thơm ngào ngạt. Trên bậc thềm hoa tươi đua nở, trong phòng rộn vang tiếng chim hót. Mọi người trong cung điện đều kính cẩn với họ. Cả triều đình đón chào họ trong gian phòng lớn, cha xứ đang chờ họ để cử hành hôn lễ cho chú rể và cô dâu đích thực.
Alibaba và bốn mươi tên cướp
Thuở xưa tại vương quốc Iraq có hai anh em là Casim và AliBaba. Casim, người anh chiếm đoạt hết tài sản do cha mẹ để lại đồng thời lại lấy được vợ giàu sang nên có một đời sống dư giả rất sung túc. Trái lại AliBaba vì không muốn tranh đoạt gia tài với anh ruột lại lấy phải vợ nghèo nên đời sống khá chật vật, chỉ đủ qua ngày. Hàng ngày Ali Baba phải đi lên rừng đốn củi đem về bán để kiếm sống. Thấy em nghèo túng, Casim và vợ không những không thương xót giúp đỡ mà còn tỏ vẻ lạnh lùng, khinh khi ra mặt. Nhưng Ali Baba vẫn không vì thế mà phiền lòng hay bất mãn, vẫn thường qua lại thăm hỏi anh mình và chị dâu cho phải đạo làm em.
Hôm ấy như thường lệ, Ali Baba lên rừng đi lấy củi. Xong việc, chàng chất củi vào hai túi phía 2 bên hông con lừa. Đang định lên đường về lại nhà bỗng nhìn thấy cát bụi mịt mù từ đàng xa, rồi kế đến là tiếng vó ngựa dồn dập mỗi lúc một gần. Ali Baba hoảng hốt, dắt lừa vào núp trong một bụi rậm, nhưng vẫn để ý nghe ngóng.
Rồi tiếng vó ngựa bỗng im bặt… Một đoàn kỵ sĩ trông dữ dằn, mang đao kiếm đầy mình dừng lại bên cạnh một tảng đá lớn trông chẳng khác gì một quả núi. Chung quanh tảng đá, rêu cỏ, cây cối mọc rậm rạp bao phủ kín mít. Nếu ai từ xa ngắm lại ắt chỉ nhìn thấy một khối xanh rì.
Ali Baba đếm được trước sau 40 người và 40 ngựa. Người nào cũng tháo gỡ một chiếc túi lớn từ trên lưng hay từ phía 2 bên hông ngựa xuống; có người thì hai túi, kẻ ba túi… Đoàn người cùng nhau tiến tới sát bên tảng đá. Người đi đầu, có lẽ là thủ lãnh của đám người bỗng ra dấu cho tất cả dừng lại trước rồi giơ hai tay lên trời nói lớn:
-Vừng ơi mở cửa ra!
Lạ lùng thay, tảng đá lâu nay mà Ali Baba đi ngang qua không biết bao nhiêu lần mà không bao giờ để ý như có một cánh cửa tự động mở ra, và bên trong sâu hun hút tựa như là một hang động. Đoàn người ôm hành trang cùng vào tất cả bên trong. Người thủ lãnh là người đi sau cùng. Y lại giơ hai tay lên trời nói:
– Vừng ơi, hãy đóng lại!
Lập tức cánh cửa đóng lại. Và bây giờ trông tảng đá khổng lồ lại giống như một hòn núi khi nãy, không có gì đáng chú ý cả. Ali Baba vẫn núp kín, không dám chường mặt ra, sợ đoàn người kia phát hiện thì có thể nguy đến tánh mạng của chàng không chừng. Phải đợi đến cả giờ đồng hồ sau, chàng mới nghe được tiếng:
-Vừng ơi mở cửa ra!
Rồi đoàn người 40 mạng từ từ lần lượt bước ra ngoài. Người thủ lãnh lại giơ hai tay lên trời nói:
– Vừng ơi, hãy đóng lại!
Đoàn người sau đó lên ngựa. Cát bụi lại bay mù mịt khắp trời pha lẫn với tiếng vó câu rang rền. Chỉ trong nháy mắt, đoàn kỵ sĩ đã mất hút, trả lại sự im lặng cho chốn núi rừng. Đoàn người đi rồi, Ali Baba mới dám ra khỏi chỗ núp. Do tính tò mò thúc đẩy, thay vì lên đường về nhà chàng đến trước tảng đá đưa hai tay lên nói:
-Vừng ơi mở cửa ra!
Lập tức cánh cửa được mở ra. Chàng nhìn thấy rõ bên trong là một hang động đúng như chàng đoán. Đã đến nước này, Ali Baba quyết định phải vào tham xét một chuyến. Nghĩ đoạn, chàng liền dắt luôn con lừa vào trong rồi đưa hai tay lên nói:
-Vừng ơi, hãy đóng lại!
Và cửa động đã được đóng kín sau đó. Nhìn thấy ánh sáng từ đâu trong động lóe ra, Ali Baba bèn nhắm hướng đó mà đi. Vừa đến nơi, chàng kêu lên một tiếng vì kinh ngạc. Trước mặt chàng, một kho tàng khổng lồ không ai có thể tưởng tượng nổi, cho dù là ở trong truyện cổ tích. Ôi chao! Nào là kim cương, vàng bạc châu báu, lại thêm không biết bao nhiêu là nhung lụa, những tấm thảm thật đẹp lộng lẫy ngay cả trong cung điện vua chúa cũng không thể nào có được. Ôi thì trăm ngàn thứ, vật nào cũng quý giá cả! Chàng thầm nghĩ.
-“Vậy thì 40 người đó chắc hẳn là cướp rồi. Thì ra chúng đi cướp khắp nơi, dùng địa điểm này là nơi dự trữ, cất giấu các bảo vật cướp được chứ chẳng chạy vào đâu! Ta phải mau ra khỏi nơi đây kẻo chúng trở lại ắt nguy đến tánh mạng!”.
Nhưng dù sao Ali Baba vẫn chỉ là con người. Hỏi có mấy ai khi đứng trước một kho tàng vĩ đại như thế này mà không động lòng bao giờ! Chàng đánh liều, gom góp 1 số ít vàng bạc châu báu thật nhiều nhét vào đầy các túi dùng để củi phía 2 bên hông lừa rồi lấy củi ngụy trang ở phía trên. Xong xuôi, chàng liền dùng câu thần chú nghe được để mở cửa động rồi đóng lại cẩn thận như không có gì xảy ra.
Về đến nhà, Ali Baba đóng kín cửa ngõ trước sau rồi bắt đầu đem ‘chiến lợi phẩm’ ra khoe với vợ. Vợ chàng kinh hãi, tưởng chàng trộm cướp của nhà giàu đem về nên tỏ vẻ không bằng lòng nói:
-Nhà mình dù nghèo nhưng từ trước vẫn sống một đời lương thiện. Tại sao chàng lại nổi máu tham lam làm những chuyện phi luân như vậy?
Biết vợ mình hiểu lầm, Ali Baba liền đem chuyện kể lại cho vợ nghe từ đầu đến cuối. Nghe xong, vợ chàng tươi ngay nét mặt, hết dị nghị. Nhìn đống vàng bạc châu báu mà cả hai vợ chồng cùng thấy ‘ớn lạnh’, không tài nào đếm nổi. Ali Baba liền đề nghị:
– Hay là em sang mượn cái đấu đong gạo bên nhà anh Casim để về mà đếm có tiện hơn không?
Vợ chàng khen phải nên chạy vội sang nhà anh chàng mượn cái đấu. Vợ Casim lấy làm lạ nghĩ thầm:
– Quái lạ! Xưa nay vợ chồng Ali Baba nghèo khổ, may ra bán củi xong chỉ mua được vừa đủ gạo nấu từng bữa thôi thì cần gì phải dùng đến cái đấu làm gì? Không lẽ hai vợ chồng vừa trúng mối nên mua được 1 số ít gạo lớn.
Người vợ Casim đi lấy đấu. Y thị lấy một ít hắc ín (dầu hắc, nhựa đường) trét vào dưới đáy bên trong cái đấu gạo với mục đích tò mò, muốn xem thử gia đình Ali Baba ăn loại gạo gì. Vợ Ali Baba mượn được đấu xong thì cám ơn rối rít ra về.
Hai vợ chồng Ali Baba lúi húi đong từng đấu một để đếm số vàng bạc châu báu. Phải mất một hồi lâu hai người mới ‘đong’ xong số vàng bạc châu báu. Sau đó, vợ Ali Baba đem cái đấu sang trả lại cho gia đình Casim. Một đồng tiền vàng dính chặt dưới đáy bên trong cái đấu gạo chỗ vợ Casim trét hắc ín nhưng vợ chồng Ali Baba vô tình không hay biết gì cả.
Nhìn đồng tiền vàng dính dưới đáy trong cái đấu, vợ của Casim hết sức kinh ngạc thốt lên:
-Trời! Không lẽ chúng nó giàu đến độ phải dùng đấu để đong vàng?
Casim vừa về đến nhà thì mụ đã chạy ra the thé rằng:
-Anh vào đây xem này. Ali Baba em của anh xưa nay chỉ giả vờ nghèo thôi chứ sự thật hắn còn giàu có gấp trăm ngàn lần vợ chồng mình nữa!
Casim ngạc nhiên hỏi:
-Chuyện gì?
Mụ vợ của Casim liền đưa cái đấu có dính đồng tiền vàng và kể lại mọi chuyện. Casim nghe xong, lòng ganh tị và căm tức nổi lên. Hắn nói với vợ:
-Mụ ở nhà, để tôi sang hỏi Ali Baba xem sao. Hừ, nếu quả thật là vậy tôi sẽ lên cáo quan cho nó biết mặt.
Nói xong, Casim hậm hực sang ngay nhà em mình. Thấy anh đột ngột đến thăm, Ali Baba hơi ngạc nhiên nhưng vẫn tiếp đón niềm nở. Casim lạnh lùng nói:
-Chú giàu có thì tôi mừng cho chứ làm gì mà phải giả nghèo giả khó như thế?
Ali Baba nghe nói vội xua tay:
-Đâu có! Em làm gì mà giàu có? Anh cũng thừa biết cảnh nghèo nàn của em từ lâu rồi phải không?
Casim lấy cái đấu, chỉ đồng tiền vàng dưới đáy nói:
-Thế cái này là cái gì đây? Ôi chao, vàng nhiều đến nỗi phải đong mà còn chối cãi bảo là nghèo à?
Biết chuyện đã bại lộ, Ali Baba bèn đem chuyện từ lúc vào rừng gặp bọn cướp, khám phá ra hang động vào kho tàng ra sao nhất nhất kể lại cho Casim nghe. Chàng ta cũng không quên nói cho anh biết cả câu thần chú dùng để mở cửa hay đóng cửa hang ra sao.
Bác đánh cá và gã hung thần
Ngày xưa, có một bác đánh cá đã cao tuổi. Một hôm bác ra biển quăng lưới, kiên nhẫn đợi cho lưới sa xuống tuận đáy biển mới kéo lên. Nhưng lần nào bác cũng chỉ cất lên toàn những thứ đáng vứt đi. Ngán ngẩm, bác thả lưới lần cuối cùng trong ngày. Mẻ này, bác với được một chiếc bình to bằng đồng, miệng gắn chì bịt kín. Bác mừng lắm, tự nhủ: “Cái bình này mang ra chợ bán được khối tiền đây!”
Bác lay thử bình, thấy nặng quá. Bác nghĩ: “Ta phải mở ra xem cái gì trong đó đã!”. Bác lấy con dao loay hoay nạy được nắp bình, nghiêng bình lắc mấy cái, đổ ra đất. Từ trong bình tuôn ra một làn khói cao ngất tầng mây và tỏa khắp mặt đất. Bác đánh cá hết sức ngạc nhiên. Khói tỏa ra miệng bình tụ lại, rung rinh biến thành con quỷ, trông thật xấu xí và dữ tợn.
Hiện nguyên hình rồi, con quỷ thét bảo bác đánh cá:
– Này tên kia, ta báo cho ngươi biết là ngươi sắp chết!
Bác đánh cá mắng ngay:
– Sao mày lại muốn cho ta chết? Ta đã cứu mày ra khỏi bình kia mà?
– Này tên đánh cá kia, hãy nghe chuyện ta đây. Ta vốn là một vị hung thần, vì phạm tội, bị trời phạt hóa thành quỷ, nhốt vào cái bình này rồi vứt xuống biển. Mấy trăm năm dưới biển sâu, ta chờ mong ai cứu ta, ta sẽ làm phép cho kẻ ấy được giàu sang, sung sướng. Chờ mãi, không có ai cứu, ta tức giận bèn nguyền: “Từ nay về sau, kẻ nào cứu ta, kẻ ấy sẽ bị ta giết”. Vừa dứt lời nguyền thì ngươi cứu ta. Vậy ngươi phải chết!
Nghe quỷ nói, bác đánh cá nghĩ thầm: “Ta là người, nó là quỷ. Ta có trí khôn. Vậy ta phải lấy trí khôn mới trị nó được”.
Bác bèn bảo quỷ:
– Ngươi nhất định bắt ta chết sao?
– Đúng! Ngươi phải chết!
– Vậy trước khi chết, ta yêu cầu ngươi cho ta biết rõ một điều.
– Cứ hỏi đi.
– To lớn như ngươi, làm sao lọt vào trong cái bình này được?
– Ngươi không tin ta à?
– Ta không thể nào tin được, trừ phi ta thấy tận mắt ngươi chui vào trong bình.
Quỷ bèn rũ mình, biến thành đám khói, bay đến tận trời xanh, khói tụ lại rồi tan dần dần chui hết vào trong bình. Bác đánh cá vội lấy ngay cái nắp bằng chì đậy luôn miệng bình lại. Quỷ vội tìm cách chui ra khỏi bình nhưng không được. Nó hết lời van xin bác đánh cá. Nhưng vô ích. Bác đánh cá lại vứt cái bình xuống biển sâu. Thế là con quỷ trở lại dưới đó vĩnh viễn.
Ba chú phó nhỏ
Ngày xưa có ba chú phó nhỏ hẹn ước luôn luôn cùng nhau làm việc trong một thành phố.
Có thời gian cả ba đều không có việc. Họ chẳng còn có gì để ăn, quần áo cũng bắt đầu sờn rách. Đứng trước cảnh ấy, một người trong số họ nói:
– Biết làm sao bây giờ? Không thể ở lại đây được nữa, chúng ta phải lên đường tới thành phố khác. Nếu như ở đó cũng không tìm ra việc làm thì đành phải báo cho ông trùm biết, rồi chúng ta phải chia tay nhau mỗi người một ngả.
Những người khác cũng cho thế là cách tốt nhất. Họ cùng nhau lên đường. Dọc đường họ gặp một người đàn ông ăn mặc nom có vẻ giàu có, người này hỏi họ là ai. Họ đáp:
– Chúng tôi là ba chú phó nhỏ đi tìm việc. Tới giờ chúng tôi luôn ở bên nhau. Nhưng nếu không tìm được việc làm thì chúng tôi sẽ chia tay nhau mỗi người một ngả.
Người đàn ông kia nói:
– Chẳng cần phải thế. Nếu các anh cứ làm đúng theo lời tôi dặn thì các anh chẳng thiếu gì tiền và việc làm. Các anh sẽ trở thành những ông chủ lớn lên xe xuống ngựa.
Một người trong số họ nói:
– Nếu như cái đó không làm tổn hại tới lương tâm nghề nghiệp thì chúng tôi sẵn sàng làm.
Người đàn ông đáp:
– Tôi chẳng cần cầu lợi ở nơi các anh.
Một người khác trong số họ nhìn xuống thì thấy người đàn ông kia một bàn chân là chân ngựa, một bàn chân là chân người nên không muốn tiếp tục câu chuyện. Lúc ấy con quỷ nói:
– Cứ bằng lòng đi, chuyện đó không liên can gì đến các anh đâu. Nó liên quan tới người khác, ta đã nắm được nửa phần hồn của người ấy, chỉ chờ lấy nốt.
Giờ thì cả ba chú phó nhỏ đã hiểu sự việc, họ đồng ý. Con quỷ liền nói điều nó muốn. Nếu có ai hỏi, người thứ nhất đáp: “Cả ba đứa chúng tôi.” Người thứ hai nói: “Chỉ vì tiền.” Người thứ ba nói: “Quả đúng như thế!”
Cả ba chỉ được trả lời đúng như theo thứ tự ấy và không được nói gì thêm. Nếu không làm đúng giao ước thì sẽ chẳng có xu nào. Nếu luôn giữ đúng như giao ước thì túi lúc nào cũng rủng rỉnh tiền. Rồi con quỷ cho họ rất nhiều tiền và bảo họ tới trọ ở quán trọ của thành phố. Họ tới, chủ quán chạy ra đon đả hỏi:
– Các anh ăn gì ạ?
Người thứ nhất đáp:
– Cả ba đứa chúng tôi.
Chủ quán nói:
– Vâng, tôi cũng nghĩ vậy.
Người thứ hai nói:
– Chỉ vì tiền.
Chủ quán nói:
– Vâng, tất nhiên là như vậy.
Người thứ ba nói:
– Quả đúng như thế.
Chủ quán nói:
– Vâng, cứ đúng như thế.
Đồ ăn thức uống được mang ra phục vụ tới nơi tới chốn cho khách. Ăn xong khách gọi trả tiền. Chủ quán giơ hóa solo cho ba người xem. Người thứ nhất nói: “Cả ba đứa chúng tôi.” Người thứ hai nói: “Chỉ vì tiền.” Người thứ ba nói: “Quả đúng như vậy.” Rồi họ đưa tiền cho chủ quán mà chẳng thèm đếm. Khách trong quán nhìn trầm trồ. “Họ chịu chơi thật.” Chủ quán nói chêm vào: “Vâng, đúng là những người chịu chơi, nhưng hơi khờ.”
Cả ba ngồi ở trong quán nhưng họ chẳng nói gì khác ngoài các câu: “Cả ba đứa chúng tôi. Chỉ vì tiền. Quả đúng như thế.” Nhưng họ quan sát và biết hết mọi chuyện trong quán. Một thương gia người cao to có nhiều tiền cũng ở trong quán, vẫy tay gọi chủ quán và nói:
– Ông chủ, ông cất giùm tôi số tiền này không ba thằng phó nhỏ khùng điên kia nó ăn trộm mất của tôi.
Chủ quán nhận và đem cất ở trong buồng. Nhấc thử thấy nặng, chủ quán biết ngay toàn là vàng ròng thôi.
Tối đến chủ quán bố trí cho ba chú phó nhỏ ngủ ở dưới, còn thương gia thì ở một phòng riêng trên lầu. Đến giữa đêm, khi mọi người ngủ say, chủ quán và vợ cầm rìu bổ củi tới buồng thương gia ngủ, hai vợ chồng đập chết thương gia rồi lại về buồng mình ngủ.
Sáng hôm sau người ta thấy thương gia kia nằm chết trong vũng máu. Mọi người bàn tán xôn xao, đứng xúm lại xem. Chủ quán nói:
– Ba thằng phó nhỏ khùng điên giết chết đấy. Khách đứng nói chen vào.
– Còn ai khác ngoài chúng.
Chủ quán cho gọi ba phó nhỏ tới và hỏi:
– Có phải mấy đứa giết người thương gia không?
Người thứ nhất nói: “Cả ba đứa chúng tôi.” Người thứ hai nói: “Chỉ vì tiền.” Người thứ ba nói: “Quả đúng như vậy.”
Chủ quán nói:
– Mọi người thấy không. Ba đứa tự thú nhận. Cả ba bị bỏ tù chờ ngày xét xử.
Ba chú phó nhỏ thấy câu chuyện trở nên nghiêm trọng nên sợ. Tối con quỷ xuất hiện và nói:
– Ráng chịu nốt ngày nữa. Đừng có nản chí. Chẳng ai dám đụng tới sợi tóc của ba người đâu.
Sáng sớm ba người đã bị dẫn ra tòa. Quan tòa hỏi:
– Cả ba can tội giết người phải không?
– Cả ba đứa chúng tôi.
– Tại sao lại đánh chết thương gia kia?
– Chỉ vì tiền.
– Chúng bay quân độc ác. Chúng bay không sợ tội lỗi hay sao?
– Quả đúng như thế.
Quan tòa phán:
– Chúng nhận mình đã làm và lại còn cứng đầu cứng cổ nữa. Dẫn chúng ra ngay hành hình.
Cả ba bị dẫn ra pháp trường. Chủ quán phải đứng vào hàng làm chứng. Cả ba bị túm ra trói gì lại vào cột, gươm đã tuốt trần, đao phủ chỉ chờ lệnh. Giữa lúc đó thì có một chiếc xe bốn con cáo màu đỏ chạy tới, xe chạy nghiến đá bắn lửa. Từ cửa sổ xe có khăn trắng vẫy. Đao phủ nói:
– Có lệnh ân xá.
Từ trong xe có tiếng vọng ra: “Ân xá, ân xá!.” Con quỷ bước ra oai như một nhà quý tộc và nói:
– Cả ba không có tội. Giờ hãy nói hết tất cả những điều mắt thấy tai nghe cho mọi người biết.
Người nhiều tuổi nhất nói:
– Chúng tôi không giết chết thương gia. Kẻ giết người đang đứng ở trong hàng kia.
Người này chỉ tên chủ quán và nói tiếp:
– Hãy khám tầng hầm nhà chủ quán, những người bị hắn giết chết còn treo lơ lửng ở đó. Đó là những bằng chứng hùng hồn.
Quan tòa cho người đến xem và thấy đúng như lời khai. Họ báo cho quan tòa biết sự thật. Tòa ra lệnh dẫn chủ quán ra pháp trường hành hình. Sau đó con quỷ nói với ba người:
– Ta đã lấy được hồn nó. Ba chú được tha bổng và giữ lấy số tiền ấy mà sống trọn đời.
Những cuộn kinh linh ứng
Ngày xưa, một nông dân nghèo có đến sáu người con. Mảnh ruộng nhỏ nhoi của gia đình, mà sau này sẽ về tay người con cả TaRô (TaRô), thật khó mà nuôi nổi cả một gia đình đông đúc. Cha mẹ bèn quyết định cho đứa con thứ hai đi tu, cậu ta là DiRô (Djiro), mười tuổi. Dù cậu ta không thích đi nữa, thì gia đình cũng bớt đi một miếng ăn. Họ biết nhà sư trụ trì tại một ngôi chùa nhỏ nằm ở ngoài ngôi làng bên cạnh, nhà sư này bằng lòng nhận DiRô vào tu học với mình.
Ngôi chùa nhỏ, nghèo nhất trong vùng, và nhà sư khả kính ở đây sống không được sung túc gì lắm. Thế nhưng ông muốn giúp bố mẹ của DiRô, mặt khác, ông ta cũng đã già rồi, ông cần có người giúp đỡ việc lặt vặt trong chùa, đó là chưa kể ông phải nghĩ dần đến việc tìm người thay ông để trụ trì ngôi chùa này.
Thế là một hôm, chú bé DiRô cạo đầu, mặc áo chùng đen, vào chùa làm môn sinh. Ngôi nhà nhỏ xây bằng gỗ nằm tách ra khỏi làng một chút, gần cái hồ ở bìa rừng, muốn đến chùa, phải đi trên một con đường băng qua ruộng lúa chạy theo các đường đê trong ruộng. Ngôi chùa xưa cũ, mưa gió thường xuyên đã làm bạc màu các bức vách và gần như xóa hết hàng chữ trên cổng. DiRô rất thích cảnh chùa, nhưng hấp dẫn chú ta nhất là cánh rừng. Hễ rảnh việc được giây phút nào là chú chạy vào rừng, hái hoa thơm hay nằm lên trên cỏ, nhàn nhã đưa mắt nhìn trời qua đám cành cây rậm lá.
Vị sư khả kính là người rất mẫu mực, ông không bắt DiRô phải làm việc nhiều. Công việc của chú là đi lượm củi, xách nước, lau quét chùa, lau bụi bặm các tượng gỗ trong thánh thất và lau kinh điển trong thư phòng, rồi thỉnh thoảng giúp việc dưới bếp. Việc nghiêm trọng nhất là học tập. Không những DiRô thấy việc tập đọc tập viết là khó khăn mà việc học nhớ kinh điển cũng thật khó hiểu, mặc dù chú đã có thiện tâm, là điều rất khó cho chú, mà chú lại còn không thích việc học hành. Khi nhà sư giảng kinh hay muốn chú học thuộc kinh, thì chú không chịu nghe, nhưng khi ngồi học một mình, chú lại thích chạy vào rừng.
Nhà sư đã khuyên giải, la mắng, nhưng chẳng ăn thua gì. Cứ cầm cuốn kinh lên tay là DiRô lại nhìn cây cối ở bên ngoài, cây cối như gọi chú ra, chú cảm thấy cây cối như tỏa mùi thơm quyến rũ, chú lắng nghe chim chóc ca hót. Thế là đi đời việc học, chỉ đợi lúc thuận tiện là chú chuồn ra ngoài ngay.
Cả một mùa hè trôi qua như thế, nhà sư mất hết kiên nhẫn. Nhiều lần DiRô để quyển kinh trên cỏ, rồi thay vì học, chú chạy vào rừng.
Nhà sư chán nản thấy rằng không bao giờ DiRô thuộc nổi một câu kinh, cho nên nhân ngày đại lễ “cầu phúc” sắp đến, ông gọi chú bé lại và nói:
– Này con, ta rất buồn phải nói cho con rõ điều này: chắc con sẽ không trở thành nhà sư tốt được đâu. Vì một nhà sư mà không biết lễ nghĩa và không thuộc kinh điển thì không ra gì hết, không giúp gì được cho người đời hết, mà chỉ là gánh nặng cho đạo hữu thôi. Nên ta định trả con về lại cho cha mẹ con, mặc dù làm thế ta rất đau lòng. Vậy con hãy trở về với gia đình đi, kẻo mất thì giờ.
Quyết định của nhà sư như sét đánh ngang tai DiRô, chú ta chảy nước mắt. Nếu không có việc học chán ngấy này, thì chắc chú rất muốn trở thành tu sĩ.
Nhà sư thấy chú bé bị xúc động mạnh cũng thương tình. Ông bèn lấy trong cái rương sơn mài ra bốn cuộn giấy, đưa cho DiRô và nói:
Ta không biết làm gì được cho con, nhưng để con hiểu là ta không giận, ta cho con bốn cuộn giấy này. Trên mỗi cuộn có vẽ hình ngôi chùa này và một đoạn kinh. Đấy là lời Phật dạy, những cuộn kinh sẽ giúp con khi lo buồn thất vọng. Hãy giữ những cuộn kinh này, và bây giờ thì con hãy đi đi.
DiRô không dám cãi lời nhà sư. Chú lấy bốn cuộn kinh bỏ vào dưới áo choàng, cúi người cám ơn nhà sư, rồi nước mắt dầm dề, chú bước ra cửa, lấy đôi dép rơm đi về. Lòng quá giao động, DiRô nghĩ: “Cha mẹ sẽ nói gì khi thình lình thấy mình quay về như thế này nhỉ?” – nghĩ thế, nước mắt chú lại tuôn ra như mưa.
Nhưng, vừa đi được vài bước, nghe tiếng lá cây xào xạc, ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt của hoa rừng, chú lại quên hết sầu muộn trong lòng. Rồi, thay vì đi về nhà, chú chạy vào rừng thân yêu. Vì bây giờ chú có vô số thì giờ để chơi, được mặc sức vào sâu trong rừng, đến những nơi mà trước đây chú chưa bao giờ để chân tới.
DiRô đuổi bướm thơm, rồi nấp sau bụi cây để nhìn một con thằn lằn nằm phơi nắng trên tảng đá, chú lắng tai nghe tiếng chim hót trên cành. Khi cảm thấy đã đến lúc phải tìm đường ra khỏi rừng, vì chú nghĩ chắc trời sắp trưa, thì bỗng nhiên trời tối sầm một cách thật lạ lùng, như thể sắp có giông bão vậy. Tất cả mọi âm thanh quanh chú đột nhiên im lặng hết, sự thay đổi đột ngột này làm cho chú run sợ.
Chú nhìn quanh và khó khăn lắm mới nhận ra được một khoảng trống trong rừng. Chú tự nhủ:
Chắc trời đã tối rồi? Ôi, ước gì ta gặp được người nào ở đằng kia.
Bỗng chú thấy ở bên kia khoảng trống có một bà già nhỏ nhắn, bà ta đang khập khiễng đi về phía chú. Chắc là bà đã già lắm rồi vì lưng bà khòm quá thấp. Trên đầu, bà đội cái mũ vải rộng, cái váy vá chằng vá đụp, quanh lưng thắt sợi dây lưng nhỏ xíu.
Bà già nhìn chú, toét miệng cười, hai hàm răng sún hết, bà nói:
Gặp được cháu ở đây thật may cho ta quá! Trông cái đầu trọc và cái áo chùng đen cháu mặc, ta biết ngay cháu là một chú tiểu. Trước sau gì rồi cháu cũng thành nhà sư. Ta thì già rồi, chân cẳng yếu, chắc không đi nổi ra tận chùa của nhà sư khả kính ở ngoài làng được. Hôm nay là ngày giỗ đầu của chồng ta, ta muốn nhờ nhà sư khả kính tụng kinh cầu nguyện cho vong linh ông ấy được siêu thoát. Nhưng bây giờ gặp được cháu ở đây, ta nhờ cháu đến tụng kinh cầu nguyện cho vong linh của ông ấy trước bàn thờ tại nhà ta. Chắc cháu không từ chối lời yêu cầu của một bà già khốn khổ như ta chứ.
DiRô phân vân không biết xứ sự ra sao. Chú rất sung sướng thoát khỏi cảnh một mình trơ trọi trong rừng âm u tối tăm như thế này. Nhưng còn việc tụng kinh cầu nguyện thì sao? Chú có nên thưa thật là mình không biết tụng kinh cầu nguyện không? Không thể nói cho bà già hay là chú không biết tụng kinh. Vì nếu có thú thật thì chắc bà ta sẽ nghĩ là chú thoái thác thôi. Cho nên chú bằng lòng chấp nhận đi theo bà qua khoảng trống trong rừng, đến một cái chòi nhỏ, mà lạ lùng thay là mới trước đây, chú không thấy gì cả. Cái chòi rất nhỏ đến nỗi hai người đi vào là đã thấy chật rồi. Chú thấy trong một góc nhà, có tấm ván đóng vào vách dùng làm bàn thờ, và trong góc kia là bếp lửa của chủ nhà. DiRô quì xuống trước bàn thờ, chú nhớ lại tất cả những gì chú còn nhớ trong các buổi lễ cầu nguyện trước đây ở chùa. Chú tụng kinh cầu nguyện cho vong hồn của người chết, rồi khó khăn lắm chú mới tụng kinh được, chữ được chữ mất. Chú toát mồ hôi hột và mặt mày đỏ gay, nhưng bà già thì lại lắng tai nghe rất chăm chú. Trông bà có vẻ rất hài lòng về buổi cầu nguyện này. Khi DiRô tụng kinh cầu nguyện xong, bà già cúi đầu, nói:
Cậu thật tốt. Tôi thành thật cám ơn cậu. Chắc ông chồng của tôi rất mãn nguyện vì cảm thấy không bị quên lãng. Nhưng bây giờ thì trời đã tối mà đường về làng thì xa, cậu sẽ dễ bị lạc lắm. Hãy ngủ lại đêm ở đây đi. Tôi chẳng có gì để mời cậu ngoài cháo lúa mạch, nhưng tôi nghĩ cậu sẽ thích cho mà xem.
DiRô quá đói cho nên chú ăn cháo lúa mạch thấy ngon thật. Ăn xong bà già dọn chỗ ngủ trên nền nhà- chỗ ngủ vừa đủ cho hai người- DiRô vừa nằm xuống là ngủ liền. Nhưng chú ngủ không ngon giấc, có lẽ vì chú ăn cháo quá nhiều, cũng có lẽ vì cái chòi thiếu không khí, cho nên dù cố gắng, nhưng chú cứ trăn qua trở lại hoài, thức lại ngủ, ngủ rồi lại thức, cho đến khi bỗng thình lình chú hoàn toàn tỉnh giấc. Chú quay người, bàn tay chạm phải chân một con thú. Rõ ràng là chú chạm phải đám lông và những cái vuốt. Nhờ ánh sáng lờ mờ của bếp lửa chiếu ra, chú thấy rõ cái chân, đúng là cái chân của bà già.
DiRô sợ đến nỗi tê liệt cả người, vì chú nghĩ chắc bà già không phải là người, mà có lẽ là một con cáo hay một con lửng đã tìm cách kéo chú vào hang để ăn thịt. Chú nghĩ phải tìm cách trốn thoát cho nhanh thôi. Chú cẩn thận, từ từ ngồi dậy. Nhưng khi chú định bước qua người bà già, bỗng bà thức dậy hỏi chú:
Này cháu, cháu đi đâu trong đêm tối thế này?
Thưa bà, cháu cần ra ngoài, -DiRô đáp, giọng rất tỉnh táo
Ngoài trời tối tăm. Cháu dễ bị lạc hay rơi xuống vực sâu, mà quanh nhà thì có rất nhiều vực. Để ta cột cháu vào sợi dây cho cháu khỏi lạc.
Bà già cột một sợi dây vào người DiRô rồi để chú ra ngoài. Khi DiRô vừa ra ngoài
Khoảng trống, bà già liền kéo sợi dây và nói lớn:
Cháu đừng ở lâu nhé!
Dạ, dạ, cháu sẽ vào ngay, -DiRô đáp, vừa lo sợ nghĩ đến cách để đối phó với tình huống này. Bỗng chú nhớ đến những cuộn kinh mà nhà sư đã cho. Có lẽ những cuộn kinh này có thể giúp chú thoát khỏi cảnh nguy hiểm trước mắt.
-Trong lúc đó bà già lại kéo sợi dây và gọi chú.
Cháu vào đây, thưa bà, -DiRô đáp, vừa lần mở sợi dây ra và buộc sợi dây vào một cuộn kinh, rồi ba chân bốn cẳng chạy.
Chú chạy chưa xa thì bà già lại kéo sợi dây và gọi tiếp. Huyền diệu làm sao, cuộn kinh có sức nặng trì lại, như thể chính DiRô đang bị buộc vào sợi dây, và hùa theo giọng chú trả lời: “Cháu vào đây, thưa bà?” -DiRô mừng thầm, chú chạy tiếp.
Cứ mỗi lần bà già giật sợi dây thì lại nghe DiRô đáp: “Cháu vào đây, thưa bà!”, nghe mãi một hồi lâu mà vẫn không thấy chú bé vào bà già nổi giận. Bà bèn ngồi dậy ra xem thử chú bé làm gì ở ngoài mà lâu thế.
Khi thấy chú bé đã biến mất, bà già tức giận dẫm nát cuộn giấy rồi đánh hơi dưới đất để xem chú đi hướng nào. Tìm được phương hướng rồi, bà ta liền đuổi theo chú bé, bà ta chạy rất nhanh như luồng gió thổi mạnh qua rừng.
Trong đêm tối, DiRô chạy chưa được bao xa thì bỗng chú nghe phía sau có tiếng thở và tiếng gầm gừ thật ghê rợn. Chú quay lại, và hoảng hồn gần muốn xỉu. Phía sau chú, không phải là bà già đi khập khiễng, mà là mụ quỷ dạ xoa (YaMamba), mụ quỷ ác độc khét tiếng trong rừng. Lỗ mũi với hai cái hốc to khủng khiếp, hai con mắt đầy gân máu nẩy lửa long sòng sọc như hai ngọn đèn, còn cái mõm thì rất ghê gớm, cái lưỡi dài thè ra ngoài, đỏ rực dài đến tận thắt lưng, mái tóc xám bay phất phơ trong gió như cái bờm ngựa. Hai cánh tay xương xẩu dài thòng, móng vuốt trông rất ghê tởm, còn hai bàn chân đầy lông lá, như DiRô đã thấy ở trong lều, nện xuống đất thình thịch. DiRô chạy một bước thì quỷ dạ xoa đã nhảy hai bước khổng lồ, cho nên chẳng mấy chốc mà quỷ đến gần chú bé, nó vươn hai bàn tay đầy vuốt nhọn ra. DiRô quá sợ, bèn lấy cuộn kinh thứ hai và ném xuống dưới chân dạ xoa.
Lập tức một con sông hiện ra giữa DiRô và Dạ xoa, dòng sông nổi sóng cuồn cuộn ngăn đôi họ ra. DiRô thở phào, thừa cơ hội này, vội vàng chạy ra khỏi rừng, và trời cũng bắt đầu sáng, chú tiếp tục chạy vào con đường băng qua ruộng lúa.
Khi Dạ xoa thấy mình bị dòng sông dậy sóng ngăn lại bên này, bên kia bờ DiRô đang cố sức chạy, mụ ta bèn hét lên một cách giận dữ và giậm chân xuống đất thình thịch. Nhưng rồi mụ ta bình tĩnh lại ngay, mụ xắn cao hai tay áo, cúi người xuống thò mõm uống nước sông. Nước chảy ừng ực vào bụng mụ ta và mực nước sông cạn dần. Một lát sau, DiRô quay nhìn lại, chú thấy nước sông cạn đến một nửa; rồi một lát sau, chú nhìn lại đã thấy dòng sông bây giờ chỉ còn là một rãnh nước, và sau đó, nước trong rãnh cũng biến mất vào trong bụng Dạ xoa.
Mụ ta lại đuổi tiếp, nhưng đã chạy chậm hơn, vì người mụ ướt mèm lại phải đưa hai tay ôm lấy cái bụng đầy nước mà chạy. Rồi Dạ soa chạy nhanh dần lên vì nước trào ra khỏi mõm mụ ào ào. Nhưng cho dù mụ có chạy chậm hơn trước, so với DiRô, mụ ta cũng chạy nhanh hơn chú nhiều, và chú chạy càng lúc càng chậm hơn. Chú chạy rẽ qua rẽ lại trên ruộng lúa, để Dạ xoa phải dừng một chút khi rẽ theo, vì cái bụng của mụ đầy nước nên cho quay qua trở về để đổi hướng hơi khó khăn. Nhưng chiến thuật này cũng không mang lại kết quả tốt cho DiRô, vì cuối cùng chú cũng nghe tiếng thở hổn hển và tiếng gầm gừ của quỷ Dạ xoa gần sau lưng. Lập tức chú lấy cuộn kinh thứ ba và ném ra sau lưng mình. Lập tức, ngay chỗ ấy hiện ra một cái hố lửa. Lửa nhảy nhót, bập bùng, dâng cao lên, chặn mụ quỷ Dạ xoa lại.
DiRô thở phào nhẹ nhõm, cố chạy nhanh hơn, vì chú đã thấy xa xa thấp thoáng những mái nhà của ngôi làng rồi. Chú ráng sức mà chạy, nhưng khi lên đến đỉnh một ngọn đồi, chú nghe phía sau có tiếng khả nghi quá. Chú bèn quay lại nhìn và thấy một đám hơi nước như mây trút xuống hố lửa rồi lửa tắt dần. Mụ Dạ xoa đứng gần bên lò lửa, ép mạnh tay vào bụng. Tức thì từ hai hốc mũi phun ra hai vòi nước, và từ miệng phun ra một thác nước nữa, nước làm lửa tắt dần dần cho dần hết.
DiRô không chờ xem lửa tắt hết, chú chạy nhanh xuống đồi. Thế nhưng, chẳng mấy chốc con quỷ Dạ xoa lại đến kịp phía sau chú, nó toát mồ hôi và đen thui vì khói. Mụ dương móng vuốt ra, chưa kịp thộp lấy chú thì chú vội lấy ra cuộn kinh cuối cùng và ném ra phía sau.
Cuộn kinh vừa chạm đất, tức thì một luồng sáng màu bạc lóe lên, rồi trước mặt mụ hiện ra một núi gươm, lưỡi gươm nào cũng sáng loáng.
“Chướng ngại như thế này thì đố ai vượt qua, ngay cả quỷ Dạ xoa cũng chịu thôi”, DiRô tự nói với mình, nhưng để đảm bảo hơn, chú vẫn không chậm bước, và sau đó chú thấy không xa trước mặt là ngôi chùa nhỏ màu xám nằm bên hồ, hiện ra lờ mờ trong làn sương sớm. Chạy được nửa đoạn đường từ chỗ có núi gươm đến chùa, thì bỗng chú lại nghe phía sau có tiếng kêu lích kích rất rùng rợn, hòa theo tiếng kêu ấy là tiến gầm gừ, la hét. Mụ dạ xoa quyết ăn tươi nuốt sống chú bé cho được, nên mụ không ngại tấn công luôn cả ngọn núi gươm. Mụ nắm những thanh gươm, bẻ gãy, nhổ lên vứt đi như nhổ cỏ. Nhiều lần mụ đứt tay rách thịt, nhưng cuối cùng mụ cũng dọn được một con đường băng qua núi.
Trong khi đó, DiRô đã đến được bên ngôi chùa mà chú đã từ giã hôm qua. Ngôi chùa đang im lìm say ngủ, chú đấm thình thịch vào cửa chùa nơi có vị sư già đang ở. Nhưng vị sư già hình như đang ngủ say, vì không có động tịnh gì hết. Trái lại, chú nghe xa xa phía sau có tiếng thở hồng hộc và tiếng gầm gừ của con quỷ dạ xoa. DiRô cố sức đấm mạnh vào cửa chùa và la lớn.
– Thầy ơi, thầy khả kính ơi.
Cuối cùng chú nghe bên trong có tiếng động đậy rồi có tiếng ngái ngủ hỏi vọng ra.
Cái gì thế?
Thầy khả kính ơi, thầy, thầy cho con vào với! -DiRô kêu cứu, vừa quay mắt nhìn lui. Trong làn sương mai đang tan dần, quỷ Dạ xoa đang dữ dằn đến gần, áo quần xơ xác, tóc tai cháy xém, nhưng cặp mắt đỏ như lửa vẫn rùng rợn và cái lưỡi khổng lồ thèm thuồng vẫn đỏ rực trông rất gớm ghiếc.
Chú nghe nhà sư bên trong ngáp rồi trả lời:
Con đấy hả, DiRô? Con muốn gì? Không phải hôm qua ta đã cho con về nhà rồi kia mà? Con biết rõ là không thể trở thành sư được kia mà.
Con van thầy, xin thấy tha thứ, mở cửa cho con vào gấp, quỷ dạ xoa đuổi theo đến gần con rồi. – DiRô đáp to, chú quá sợ, sắp mất hết cả tinh thần.
Ăn nói gì mà ngốc thế! Quỷ dạ xoa xuất hiện ở vùng phụ cận khi nào? Hãy ngoan mà về nhà đi, ta không cần con đâu!
Thưa thầy, thưa thầy khả kính! Quỷ đã đến gần rồi, mau lên, cho con vào với! – DiRô van nài, chú đứng dán người vào cửa vì cặp mắt đỏ như lửa của dạ xoa đã sáng rực trên bờ hồ rồi, các móng vuốt sắc nhọn trên chân nó va vào đá sỏi trong sân chùa nghe lích kính thật rùng rợn.
Lời cầu xin khẩn thiết của chú bé đã làm cho nhà sư đổi ý, và ngay khi con quỷ sắp sửa vồ lấy DiRô, thì nhà sư đẩy chốt cửa mở ra. DiRô nhào vào qua ngưỡng cửa, cái lưỡi dài của quỷ dạ xoa thè theo chú, con quỷ quyết không để cho bất cứ con mồi nào thoát khỏi tay nó. Nhưng nhà sư đã đóng sập cửa lại. Một tiếng thét vang lên thất thanh trong không trung, và quỷ dạ xoa biến mất.
Tất cả đều như trước. Mặt trời từ từ lên cao, ánh nắng chiếu tràn ngập căn phòng, nhà sư khả kính vuốt ve đầu DiRô, ông nói với chú rằng ông muốn thử thách DiRô thêm lần nữa. Và không bao giờ ông ân hận vì quyết định này. Kể từ hôm ấy, DiRô trở nên cần mẫn, không ai có thể dẫn chú vào rừng được, ngay cả hương thơm ngào ngạt nhất của rừng cũng không lôi cuốn được chú.
Cô kéo sợi lười biếng
Ở làng có hai vợ chồng nhà kia, vợ lười tới mức không bao giờ muốn nhúc nhích chân tay. Chồng bảo kéo sợi, cô chỉ kéo nửa vời, và kéo xong cô không guồng, cứ mặc sợi y nguyên trên ống. Thấy vậy chồng mắng, cô liền quai mồm ra cãi:
– Dào ôi, guồng sao bây giờ, guồng đâu ra mà guồng. Có giỏi cứ vào rừng kiếm một cái gì để tôi guồng!
Chồng bảo:
– Nếu chỉ có thế, tôi sẽ vào rừng tìm gỗ làm guồng cho mình ngay!
Giờ cô ta đâm lo. Cô ta lo chồng tìm được gỗ tốt sẽ đóng guồng. Lúc đó cô phải guồng sợi, công việc cứ thế nối tiếp nhau: kéo sợi, guồng sợi. Suy nghĩ hồi lâu cô nghĩ ra một kế, cô liền theo chồng vào rừng. Đợi chồng leo lên cây chọn gỗ, bắt đầu đốn gỗ, lúc đó cô lẩn vào trong bụi cây gần đấy để chồng không trông thấy mình, rồi cô cất giọng:
“Ai đốn gỗ đóng guồng sẽ chết,
Ai dùng guồng ấy cũng hết đời.”
Thấy có tiếng người, chồng ngưng tay rìu, lắng nghe xem câu hát kia có ý nghĩa gì. Rồi anh tự nhủ:
– Ối chà, chỉ sợ hão huyền, chẳng qua váng tai nghe vậy, nào có gì.
Anh lại cầm rìu, định đốn gỗ tiếp thì lại có tiếng hát vọng lên:
“Ai đốn gỗ đóng guồng sẽ chết,
Ai dùng guồng ấy cũng hết đời.”
Anh ngừng tay, cảm thấy sờ sợ, ngồi ngẫm nghĩ. Lát sau anh định thần được, với tay lấy rìu định đốn gỗ tiếp tục. Lần thứ ba lại có tiếng hát cất lên nghe rất rành rõ:
“Ai đốn gỗ đóng guồng sẽ chết,
Ai dùng guồng ấy cũng hết đời.”
Hóa tam ba bận thế là đủ lắm rồi, anh chàng hết cả hứng, tụt xuống cây và đi về nhà. Chị vợ lẻn chạy đường tắt về nhà trước. Lúc chồng về tới nhà, vợ giả tảng như không biết gì, cất giọng hỏi chồng:
– Thế nào, mình kiếm được gỗ tốt đóng guồng chứ?
Chồng đáp:
– Không kiếm được, chuyện đóng guồng có lẽ không thành.
Chồng kể cho vợ nghe chuyện xảy ra trong rừng, và từ đó không đả động đến chuyện ấy nữa.
Những chỉ ít ngày sau, thấy nhà cửa bề bộn chồng lại thấy bực. Anh bảo vợ:
– Mình này, thật xấu hổ quá, ai đời kéo xong rồi mà cứ để nguyên ở ống thế kia!
Vợ nói:
– Mình có biết không? Nhà ta không có guồng, hay mình đứng trên xà nhà, tôi đứng dưới ném ống lên cho mình bắt lại ném xuống, ta guồng sợi theo kiểu ấy vậy.
Chồng nói:
– Ờ thế cũng được.
Họ làm theo lối ấy, làm xong chồng bảo vợ:
– Sợi đã guồng xong, giờ phải luộc chứ!
Ả vợ lại đâm lo, nhưng ngoài mặt cô vẫn nói:
– Vâng, để mai tôi dậy sớm luộc.
Trong bụng cô đã tính được kế mới.
Hôm sau, sớm tinh mở cô đã dậy, nhóm lửa, bắc nồi. Đáng nhẽ thả chỉ vào luộc, cô lại cho vào nồi một nắm sợi gai rối, rồi cứ thế ninh. Chồng vẫn còn ngủ ở trong giường, cô vào đánh thức và dặn:
– Tôi có việc phải ra ngoài, mình dậy trông nồi sợi ở dưới bếp cho tôi nhé, dậy ngay đi, tới lúc gà gáy mà mình vẫn chưa xuống xem thì sợi sẽ hóa thành một đám sợi gai rồi đấy!
Vốn tính chăm chỉ, không muốn để lỡ cái gì, chồng vội nhỏm dậy đi nhanh xuống bếp. Nhưng khi anh đi xuống tới nơi, nhìn vào nồi, anh hoảng lên vì chỉ thấy có nắm sợi gai rối. Anh chàng đáng thương đành ngậm miệng, tưởng chính mình dậy muộn nên hỏng việc nên phải chịu lỗi. Từ đấy không bao giờ anh nhắc tới kéo sợi, guồng sợi nữa.
Có lẽ chính bạn cũng phải nói: cô kéo sợi kia thật là một người đàn bà lười biếng.
Đám cưới chị Cáo
Ngày xửa ngày xưa, có con cáo già có chín đuôi, nó nghĩ, mình phải thử xem vợ mình có chung thủy không? Nó nằm sóng xoài dưới gầm ghế dài, nom như đã chết từ đời thuở nào ấy. Vợ cáo buồn rầu đóng cửa buồng mình lại, ở buồng ngoài chỉ còn chị mèo người ở đang đứng bên bếp nấu ăn.
Chuyện cáo già chín đuôi chết đã lan tin khắp nơi.
Một hôm, nghe tiếng gõ cửa, mèo ra mở cửa, thấy mèo, chàng cáo liền nói:
– À, chào chị mèo. Bà chủ ở nhà, Bà ngủ hay thức?
Mèo đáp:
– Bà có ngủ đâu, tôi đang mải nấu. Ông từ đâu tới, tới có việc chi?
Chàng cáo nói:
– Cám ơn chị mèo. Xin chị cho biết, Bà cáo làm chi?
Mèo đáp:
– Ông cáo về trời, để nơi trần gian một mình bà chủ ủ rũ trong phòng
– Này chị mèo ơi, xin chị giúp với tôi tới nơi đây, kết bầy, kết bạn.
– Thế cũng được thôi, để tôi vào hỏi.
Mèo chạy tung tăng, lăng xăng gõ hỏi:
– Bà cáo, bà ơi có người tới chơi.
– Trời ơi, gì đó? Có khách tới nhà?
– Có người tới đây,
Kết bầy, kết bạn.
– Này mèo thân mến
Người đến nom sao?
Có hao hao giống,
Ông cáo chín đuôi?
Mèo đáp:
– Ông khách nhà mình. Hình như mỗi “một.”
– Thế thì thôi nhé, để ông đi.
Khách này vừa mới đi khỏi, lại có khách khác tới gõ cửa. Chàng cáo này có hai đuôi, nhưng hai đuôi thì ít quá, rồi lại có chàng ba đuôi, bốn đuôi… tám đuôi tới, nhưng tất cả đều thất vọng ra đi. Chàng cáo cuối cùng cũng có chín đuôi như cáo già. Quả phụ nghe thế, reo vui bảo mèo:
Mở ngay cửa nhà,
tống cáo già ra!
Đúng lúc đám cưới bắt đầu cử hành thì cáo già vùng dậy, vung gậy đập tứ tung, đuổi đánh, tống khứ tất cả ra ngoài đường.
CHỊ CÁO KÉN CHỒNG
Khi cáo già đực qua đời thì sói tới dạm hỏi. Nó gõ cửa, chị mèo người ở ra mở cửa. Cáo chào mèo và hỏi:
– Xin chào chị mèo Vui Tính, sao chị ngồi đây chỉ có một mình, chị tính làm việc chi vậy?
Mèo đáp:
Cho bánh vào sữa để ăn,
Xin Ông cho biết ý Ông thế nào?
Sói hỏi:
– Cám ơn chị mèo, chị cáo có nhà không?
Mèo nói:
– Cáo ngồi ở buồng bên kia,
Ngồi khóc nỉ non,
Khóc vì khốn khó,
Bởi ông cáo già,
Đã qua đời rồi.
Sói nói:
– Muốn đi bước nữa,
Xin xuống đây đi.
Mèo chạy đi, gõ cửa gọi:
– Này chị cáo ơi,
Khách tới chơi hỏi.
muốn đi bước nữa,
thì xuống tiếp đi.
Cáo hỏi:
– Ông khách quần đỏ,
Có mõm nhọn không?
Mèo đáp:
– Không, ông ấy không phải.
Sói đi khỏi thì lần lượt chó, hươu, thỏ, gấu, sư tử và các loài thú khác tới. Nhưng chẳng có con nào có được những đức tính như ông cáo, vì vậy mèo cứ phải đón và tiễn khách hoài. Cuối cùng có chú cáo non tới. Chị cáo hỏi:
Ông khách quần đỏ,
mõm nhọn phải không?
Mèo đáp:
– Vâng, đúng thế ạ.
Cáo nói:
– Mời khách lên đi.
Rồi cáo sai mèo chuẩn bị đám cưới.
Quét sạch cửa nhà,
Ném lão cáo già,
qua cửa sổ kia
Mang chuột ra đãi,
Chủ khách cùng ăn.
Hôn lễ được cử hành, ăn uống, vui nhảy. Nến hôn lễ chưa tan, mọi người còn đang vui nhảy đấy.
Có thể bạn thích: