Puskin (1799 – 1837) là nhà thơ Nga vĩ đại, là niềm tự hào của dân tộc Nga và của chung nhân loại. Sự nghiệp sáng tác của ông gắn liền với toàn bộ nền văn học Nga, góp phần đưa văn học Nga lên đến đỉnh cao của sự phát triển. Ông là tác giả của nhiều trường ca và truyện cổ tích tuyệt diệu. Truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” (1833) thuộc thể loại truyện cổ tích về cuộc đời kì lạ của ông lão gặp được con cá vàng có phép thuật được viết sự trên cơ sở yêu tố dân gian của Nga, Đức thể hiện được nét chất phác, dung dị của thể loại dân gian. Truyện ca ngợi lòng biết ơn đối với những người nhân hậu và nêu ra bài học đích đáng cho những kẻ tham lam, bội bạc. Mời các bạn tham khảo 1 số bài văn phân tích truyện đã được TopChuan.com tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” số 9
Truyện cổ tích bao giờ cũng thể hiện ước mơ của nhân dân về sự chiến thắng của cái thiện, ác giả ác báo. Em đã được học rất nhiều câu chuyện cổ tích nhưng để lại cho em ấn tượng và tình cảm nhất là truyện cổ tích “ Ông lão đánh cá và con cá vàng”.
Truyện kể về hai vợ chồng làm nghề đánh cá nhưng họ sống vô cùng nghèo khổ với một túp lều nát trên bờ biển. Hai vợ chồng làm việc hàng ngày, người thì thả lưới, người thì kéo sợi. Một hôm ông lão đánh cá bắt được một con cá vàng. Con cá xin ông lão tha mạng, ông lão muốn gì cũng được nhưng rồi ông lão tốt bụng nói lão không muốn thứ gì rồi thả con cá ra. Nào ngờ mụ vợ sau khi biết chuyện đã mắng ông lão và bắt ông xin con cá hết máng lợn, đến ngôi nhà, rồi mụ không dừng lại ở đó mụ muốn làm nhất phẩm phu nhân, rồi làm nữ hoàng. Cuối cùng chính lòng tham vô đáy của mụ, mụ đã mất hết khi mụ yêu cầu làm Long Vương ngự trị biển cả. Con cá lần này đã không thể đáp ứng yêu cầu của mụ và hai vợ chồng lại quay trở lại máng lợn cũ cùng với túp lều nát.
Sự tham lam của mụ vợ càng ngày càng quá quắt và tột độ. Năm lần ông lão ra biển là biển cả lại có sự thay đổi. Lần đầu tiên, do mụ chỉ yêu cầu một vật chất bình thường là cái máng lợn mới thì biển êm ả. Con cá đáp ứng được. Lần thứ hai thì mụ yêu cầu một căn nhà rộng lớn thì biển đã nổi sóng nhưng rồi con cá cũng thực hiện. Lần thứ ba thì biển nổi sóng dữ dội. Lần thứ tư biển nổi sóng mù mịt và lần cuối cùng là biển nổi cơn dông tố khinh khủng. Dường như sự tức giận của biển cả cũng tăng lên như lòng tham vô đáy của mụ vợ. Biển cả kia tương trưng cho thái độ của nhân dân đối với cái ác, sự tham lam. Nhân dân không thể đáp ứng những sự đòi hỏi ngày càng cao của mụ vợ.
Trong câu chuyện, ông lão là một người thật đáng thương.Ông là một người hiền lành, tốt bụng. Ông không hề ham vật chất vì ngay từ đầu ông đã thả con cá đi và không đòi hỏi một thứ vật chất nào. Chỉ vì nghe lời vợ và bị ép buộc đuổi đánh, ông đành ra ngoài khơi để con cá giúp mình. Ông bị vợ sỉ mắng, khinh rẻ, ngược đãi. Bị vợ chửi là “ Đồ ngu”, mắng như tát nước, bắt ông quyét dọn chuồng ngựa, bị đuổi đánh. Những hành động của mụ với ông lão hiền lành đó khiến cho chúng ta vô cùng thương xót.
Câu chuyện đã ngợi ca lòng biết ơn đối với những người nhân hậu như ông lão. Đồng thời những người như mụ vợ chắc chắn sẽ nhận được bài học đích đáng. Kết thúc cuối cùng là hai vợ chồng lại trở về cuộc sống như cũ. Chắc mụ vợ sẽ cảm thấy hối hận chắc việc làm của mình và ông lão 1 phần cũng rất vui vẻ vì lão không mất gì cả. Lão đã trở về cuộc sống như trước đây thật yên bình.
Bài văn phân tích truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” số 6
Ông lão đánh cá và con các vàng là một truyện cổ dân gian Nga được A.Puskin kể lại bằng 205 câu thơ (tiếng Nga) và Vũ Đình Liêm, Lê Trí Viễn dịch sang tiếng Việt qua văn bản tiếng Pháp. Người dịch vừa giữ được nét chất phác, dung dị của nghệ thuật truyện cổ dân gian, vừa rất điêu luyện, tinh tế trong sự miêu tả và sắp xếp tình tiết của truyện. Truyện không chỉ hấp dẫn với người Nga mà còn với nhiều dân tộc khác trên thế giới.
Truyện sử dụng những biện pháp nghệ thuật rất tiêu biểu của cố tích như sự lặp lại và tăng tiến của những tình huống, sự đối lập giữa các nhân vật, sự xuất hiện của các yếu tố tưởng tượng, hoang đường. Truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng ca ngợi lòng biết ơn với những người nhân hậu và nêu ra bài học đích đáng cho những kẻ tham lam, bội bạc.
Cốt truyện đơn giản: “Ngày xưa, có hai vợ chồng người đánh cá già sống rất nghèo khổ. Một hôm, ông lão kéo lưới bắt được một con cá vàng. Cá vàng van xin ông lão thả ra, ông lão muốn gì sẽ được nấy. Mụ vợ tham lam bắt ông lão phải thực hiện những điều mụ yêu cầu. Lòng tham vô tận, mụ muốn làm Long Vương để bắt cá hầu hạ. Cá vàng tức giận, bắt mụ trở về cuộc sống nghèo khổ như xưa”.
Truyện có ba nhân vật: ông lão đánh cá, mụ vợ và con cá vàng. Biển cả mênh mông là khung cảnh làm nền cho ba nhân vật hoạt động. Trong truyện, ông lão năm lần ra biển gọi cá vàng để nhờ cậy. Lần thứ nhất: biển gợn sóng êm ả. Lần thứ hai: biển nổi xanh nổi sóng. Lần thứ ba: biển xanh nổi sóng dữ dội. Lần thứ tư: biển nổi sóng mù mịt. Lần thứ năm: một cơn dông kinh khủng kéo đến, mặt biển nổi sóng ầm ầm.
Năm lần gọi cá vàng là năm lần cảnh biển thay đổi. Một bên là những yêu cầu hàng ngày càng quá quắt của mụ vợ ông lão, một bên là phản ứng của biển mỗi lúc một tăng, tương ứng với sự vô lí của những yêu cầu đó. Qua những lần lặp lại như thế, tính cách nhân vật (ông lão, mụ vợ, cá vàng) và chủ đề của truyện càng được tô đậm. Ở đây, biển không chỉ đơn thuần làm nền cho các nhân vật hoạt động mà còn tham gia tích cực vào diễn biến của truyện, tượng trưng cho phản ứng của nhân dân, của trời đất trước thói tham lam và bội bạc.
Đọc truyện này, ai cũng thương ông lão bởi vì ông lão là người tốt bụng, hiền lành mà không may gặp phải mụ vợ tai quái, độc ác. Ông lão luôn luôn bị vợ mắng chửi tàn tệ. Lần thứ nhất, khi ông lão thật thà kể chuyện về cá vàng, ông đã bị mụ mắng như mắng trẻ con: “Đồ ngốc!… “. Lần thứ hai, dù ông lão đã làm theo ý mụ, mụ vẫn quát to: “Đồ ngu!…”. Lần thứ ba, thấy ông lão từ biển về, mụ mắng như tát nước vào mặt…
Không chỉ bị vợ sỉ nhục, mắng mỏ, ông lão còn bị mủ khinh rẻ, ngược đãi. Lần thứ ba, tuy ông lão đã ra biển xin cá vàng cho mụ trở thành thất phẩm phu nhân nhưng ông vẫn bị mụ quát tháo và bắt quét dọn chuồng ngựa. Lần thứ tư, ông lão lại năn nỉ xin cá vàng cho mụ được làm nữ hoàng, để rồi mụ tàn nhẫn ra lệnh đuổi đi…
Từ địa vị của một ông chồng, ông lão đã bị biến thành đầy tớ, bị vợ hắt hủi, xua đuổi không chút xót thương. Nguyên nhân chỉ vì ông sợ vợ một cách mù quáng. Người đọc thương ông lão hiền lành nhưng cũng giận ông lão quá nhu nhược, nhất nhất nghe theo lời vợ. Biết mụ được voi đòi tiên nhưng ông vẫn nhắm mắt làm theo lời mụ. Cảm thấy những đòi hỏi của mụ vợ là vô lí, nhận ra lòng tham đến mức quái gở của mụ, vậy mà ông lão không dám phản đối thì thật là là đáng trách.
Chính vì nhu nhược mà ông lão bị mụ vợ đối xử thậm tệ. Lần thứ tư, rồi lần thứ năm, ông lão vẫn mù quáng làm theo lời mụ vợ, chỉ biết van xin cá vàng: “- Giúp tôi với! Thương tôi với! Tôi sống làm sao được?” Ông lão không biết bảo vệ mình. Dân gian có câu: Một sự nhịn là chín sự lành nhưng nhịn nhục như ông lão là điều không nên.
Ông lão là một người hiền lành tử tế, đối lập với mụ vợ tai quái, độc ác. Vì vậy, người đọc thương xót, ái ngại cho tình cảnh của ông. Câu chuyện của ông lão đánh cá đã cho chúng ta một bài học về cách đối nhân xử thế. Sự nhẫn nhục chịu đựng bao giờ cũng có giới hạn. Mỗi người cần có bản lĩnh để bảo vệ nhân phẩm của mình, không nên nhân nhượng và làm theo những tham vọng ngông cuồng của kẻ khác.
Trong truyện, mụ vợ là nhân vật phản diện. Đây không phải là một con người mang tính xấu mà là tính xấu xuất hiện dưới lốt người. Có thể kể ra vô số tính xấu của nhân vật này như: tham lam, bội bạc, dữ dằn, thô lỗ… Trong đó có hai thói xấu nổi bật nhất làm tham lam và bội bạc. Có lẽ sự bội bạc còn đáng ghét và khó tha thứ hơn cả sự tham lam.
Bài văn phân tích truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” số 5
Puskin là nhà văn nổi tiếng người Nga. Ông để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ trong đó có bài “Ông lão đánh cá và con cá vàng”. Tác phẩm cho thấy những người sống nhân hậu hiền lành thì cuối cùng cũng sẽ được đền đáp. Còn những kẻ tham lam có voi đòi tiên thì cuối cùng sẽ bị bào ứng.
Truyện kể về ngày xưa có hai vợ chồng sống nghèo khổ. Một ngày ông lão đi đánh cá nên bắt được một con cá vàng. Con cá xin con cá tha cho, ông muốn gì ông cũng cho. Mụ vợ tham lam bắt ông lão phải đòi được những gì theo ý mình. Lòng tham, bà mụ bắt con cá cho một lâu đài và cá phải hầu hạ bà. Cá vàng tức giận bắt mụ trở về cuộc sống nghèo khổ như xưa.
Trước tiên ông lão là một người nghèo khổ nhưng rất lương thiện. Ngày ngày ông không quản mưa nắng vẫn cần mẫn đi kiếm sống qua ngày. Đối với một người đi đánh cá thì việc bắt được cá là mục tiêu của họ. Nhưng khi bắt được con cá vàng, nó cầu xin ông tha mạng thì ông lão dã thả con cá trở về biển về đại dương. Ta thấy ông lão là một người rất nghèo khó không có cuộc sống no đủ nhưng trước lời cầu xin của con cá thì ông sẵn sàng trả con cá về mặc dù đó đồng nghĩa với việc hôm nay ông sẽ không thu hoạch được gì. Ta thấy được tấm lòng lương thiện bao dung của ông lão đối với cả một động vật nhỏ bé.Nhưng ngược lại tấm lòng lương thiên ấy là mụ vợ của ông khi biết được chuyện đã quát mắng ông bắt ông năm lần bảy lượt ra bắt cá làm theo ý định của mụ ta. Ông lão buộc phải đồng ý với mụ vợ và chán nản đi ra biển nhờ cá giúp đỡ theo ý của mụ.
Qua đây ta thấy được ông lão có phân hơi nhu nhược trước mụ vợ. Ông không hề quyết đoán mà chỉ biết nghe lời vợ chấp nhận theo ước muốn của mụ ta. Ông cúng không đồng tình với ý mụ vợ nhưng ông không đủ dũng cảm để chống lại mụ ta. Ta thấy ở đây ông lão la một người vô cùng lương thiện. Khi con cá hỏi ông có ước muốn gì không thì ông không hề tham lam ông không cần gì cả mà vẫn vui vẻ trả con cá về biển. Ông chính là biểu tượng của một người nông dân trong chế độ xã hội cũ. Đối với mụ vợ thì ông lão không chỉ là chồng mà còn là ân nhân vì có ông nên mụ vợ mới được sống sung sướng. Nhưng mụ vợ không hề biểu được điều đó mà luôn có thái độ coi thường quát mắng ông.
Mụ chỉ coi ông như một người đầy tớ một người để bà sai bảo và chỉ có thể cúi đầu nghe lệnh. Kết thúc truyện hình ảnh mụ vợ phải trở về cuộc sống như xưa nên rất thích đáng. Trước đây mụ chưa từng được sống trong giàu sang phú quý nên mụ chưa hiểu được sự sung sướng là như thế nào nhưng khi mụ đang được sống sung sướng mà lại trở về nghèo khó thì đó không chỉ là một sự trừng phạt về cả tinh thần. Mụ chắc chắn sẽ không thể chịu được cuộc sống đó lúc nào cũng chỉ cảm thấy khó chịu uất ức nhục nhã ê chề đến cực điểm. Cá vàng trừng trị ông lão cả về tội tham lam và bội bạc nhưng ta thấy rằng tội bội bạc có phần lớn hơn. Mụ vợ không những khi có được cuộc sống giàu có thì chuyển sang không coi con cá là ông nhân của mình mà còn bôi bạc với người chồng đã sống với mình mấy chục năm.
Ở đây con cá chính là một biểu tượng cho sự biết ơn khi ông lão thả con cá về thì con cá cho ông được cái mình muốn. Con cá chính là hình ảnh tưởng tượng của nhân dân ta để báo đáp những người sống thật thà lương thiện. Đồng thời con cá cũng là công cụ để nhân dân ta thi hành sự trừng trị thích đáng đối vói những kẻ tham lam bạc bẽo.
Câu chuyện kết thúc bằng hình ảnh “trước mặt ông lão lại thấy túp lều nát ngày xưa, và trên bậc cửa, mụ vợ đang ngồi trước cái máng lợn sứt mẻ”. Cái kết cục ấy là tất yếu nhưng cũng đã để lại cho người đọc người nghe nhiều suy nghĩ. Với ông lão, việc trở về cuộc sống bình thường hẳn sẽ tốt hơn rất nhiều. Còn với mụ vợ, con người không có chút công lao gì với cá vàng mà lại đòi hỏi quá nhiều thì việc mất hết những gì mụ đã có (mà không phải bỏ ra chút công sức nào) là lẽ công bằng, một sự trừng phạt đích đáng cho thói tham lam vô độ và sự bội bạc của mụ đối với ông lão. Đó cũng là sự thể hiện ước mơ công lí của nhân dân.
Ta thấy câu truyện ông lão đánh cá và con cá vàng chính là một câu chuyện điển hình của truyện cổ tích dân gian. Mà đã là chuyện cổ tích thì thường thể hiện ước muốn của nhân dân đó chính là cái thiện sẽ được báo đáp còn những kẻ tham lam bội bạc thì sơm muộn gì cũng sẽ bị trừng trị thích đáng nhất. Câu chuyện cũng thể hiện 1 phần nào đo ước muốn có cuộc sống ấm no hạnh phúc của nhân dân trong cuộc sống cực khổ ở xã hội đương thời.
Tác phẩm đề cao lòng biết ơn đối với những người nhân hậu và bài học đích đáng cho những kẻ bội bạc tham lam.Đó cũng là mong ước muôn đời của nhân dân ta.
Bài văn phân tích truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” số 4
A.Pu-skin là nhà văn lỗi lạc, đại thi hào dân tộc Nga. Ông đã để lại cho lớp lớp thế hệ sau nhiều tác phẩm có giá trị, sức sống lâu bền và một trong số đó là truyện “Ông lão cá đánh cá và con cá vàng”. “Ông lão đánh cá và con cá vàng” được Pu-skin kể lại bằng 205 câu thơ, dựa trên cơ sở truyện dân gian của Nga và Đức. Với nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật và nội dung, truyện đã để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng sâu sắc.
Truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” là câu chuyện kể về hai vợ chồng ông lão đánh cá, “sống cùng nhau trong một túp lều nát trên bờ biển. Ngày ngày chồng đi thả lưới, vợ ở nhà kéo sợi”. Và trước hết, nhân vật mụ vợ ông lão đánh cá là nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Mụ vợ là người có lòng tham không đáy. Sau khi nghe ông lão đánh cá – chồng của mụ kể về việc đánh được con cá vàng và con cá xin được ông tha mạng đồng thời hứa sẽ đền đáp cho ông, mụ đã liên tiếp đưa ra những yêu cầu với con cá, những yêu cầu ấy cứ ngày một tăng dần. Lần đầu tiên, mụ yêu cầu một chiếc máng lợn vì chiếc máng ở nhà đã sắp vỡ.
Sau khi được con cá đáp ứng, bà lão vẫn chưa hài lòng, bà bảo “một cái máng thì đã thấm vào đâu. Đi tìm lại con cá và đòi một cái nhà rộng”. Lần này, mặc dù biển đã bắt đầu gợn sóng nhưng vẫn đáp ứng yêu cầu của mụ và để rồi, “một ngôi nhà rộng và đẹp” vẫn không đủ thỏa mãn lòng tham của bà lão, bà lão lại một lần nữa đưa ra yêu cầu khác. Lần thứ ba, bà lão yêu cầu được làm nhất phẩm phu nhân. Ông lão lại một lần nữa ra biển cả, tìm con cá và nói lên ước muốn của mụ vợ, biển cả nổi sóng dữ dội nhưng vẫn chấp nhận yêu cầu ấy của mụ vợ.
Nhưng mụ vợ vẫn chưa hài lòng với vị thế đấy của mình, bà lại muốn trở thành nữ hoàng và khi trở thành nữ hoàng bà lại muốn trở thành Long Vương ngự trên mặt biển. Mụ vợ, với năm lần đưa ra yêu cầu theo cấp độ tăng tiến và trong số đó có những yêu cầu thật vô lí, điều đó cho thấy mụ vợ là một người tham lam vô độ, không có bất cứ điều gì có thể thỏa mãn được lòng tham ấy của bà. Thêm vào đó, mụ vợ còn là người độc ác, ích kỉ và bội bạc. Những điều ấy thể hiện rõ nét qua thái độ và cách đối xử của bà với chồng của mình. Khi con cá đã đáp ứng những yêu cầu của mụ thì mụ không còn xem ông lão đánh cá như người ngoài mà đuổi khỏi nhà. Mụ quát tháo, đánh vào mặt ông lão và thậm chí mụ còn xem ông lão là nô lệ, buộc ông lão phải đi quét dọn chuồng ngựa. Và như vậy, mụ vợ trong tác phẩm hiện lên là một người tham lam, độc ác và ích kỉ, đáng bị mọi người phê phán, lên án.
Trái ngược hoàn toàn với nhân vật mụ vợ đó chính là nhân vật ông lão đánh cá – chồng của mụ. Ông lão đánh cá hiện lên là một người hiền lành, thật thà, tốt bụng, lương thiện và chăm chỉ. Mặc dù cuộc sống của gia đình lão rất nghèo khó và vất vả nhưng ngày này qua ngày khác lão vẫn chăm chỉ, cần mẫn đi thả lưới. Không dừng lại ở đó, lòng tốt của lão còn được thể hiện khi lão bắt được con cá vàng. Theo lẽ thường, như những người làm nghề chài lưới khác, khi bắt được cá người ta sẽ mang ngay về nhà, nhưng ông lão lại hoàn toàn khác.
Sau nhiều lần quăng lưới và không thu về được gì, lão mới bắt được con cá vàng nhưng khi nghe con cá van xin, lão đã tha cho nó mà không một chút lăn tăn, suy nghĩ. Để rồi, khi con cá muốn được trả ơn, lão chẳng nhận gì cả mà chỉ đáp lại với con cá “Trời phù hộ cho ngươi. Ngươi trở về biển khơi mà vùng vẫy. Ta không đòi hỏi gì cả, ta cũng chả cần gì”. Ông lão tốt bụng lương thiện là thế nhưng ta vẫn thấy ông lão là người hèn nhát, nhu nhược. Trước những yêu cầu của vợ mình, lão không chút phản đối mà một mực nhất nhất nghe mà làm theo. Trong tác phẩm, có lần lão đã có phản ứng lại với vợ của mình nhưng đó chỉ là lời cầu xin của lão đối với vợ chứ không phải là khuyên răn hay ngăn cản.
Thêm vào đó, trong tác phẩm, con cá cũng là một hình tượng giàu ý nghĩa và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Con cá là phần thưởng cho những người lương thiện, có lòng tốt, là biểu hiện sâu sắc cho chân lí “ở hiền gặp lành, ác giả ác báo của nhân dân ta”. Hơn nữa, cá vàng còn đại diện cho công lí, lẽ phải khi trừng trị kẻ độc ác, tham lam, bội bạc. Đồng thời, cách kết thúc tác phẩm cũng có ý nghĩa sâu sắc, góp phần to lớn vào việc thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Truyện kết thúc bằng chi tiết “trước mắt ông lão lại thấy túp lều nát ngày xưa, và trên bậc cửa, mụ vợ đang ngồi trước cái máng lợn sứt mẻ’. Có thể nói, đó là cách kết thúc tác phẩm đầy bất ngờ nhưng cũng rất hợp lí. Cách kết thúc tác phẩm ấy chính là sự trừng trị thích đáng đối với mụ vợ – kẻ tham lam, bội bạc. Đồng thời, kết thúc ấy cũng góp phần thể hiện chủ đề, ý nghĩa của tác phẩm.
Tóm lại, truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố hiện thực và yếu tố tưởng tượng, kì ảo đã cất lên lời ngợi ca về lòng biết ơn đối với những con người lương thiện, tốt bụng và nêu ra bài học những con người tham lam, bội bạc.
Bài văn phân tích truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” số 8
Ông lão đánh cá và con cá vàng là một truyện cổ dân gian Nga được A. Pushkin kể lại bằng 205 câu thơ (tiếng Nga) và Vũ Đình Liên, Lê Trí Viễn dịch sang tiếng Việt qua văn bản tiếng Pháp. Người dịch vừa giữ được nét chất phác, dung dị của nghệ thuật truyện cổ dân gian, vừa rất điêu luyện, tinh tế trong sự miêu tả và sắp xếp tình tiết của truyện. Truyện không chỉ hấp dẫn với người Nga mà còn với nhiều dân tộc khác trên thế giới.
Truyện sử dụng những biện pháp nghệ thuật rất tiêu biểu của cổ tích như: sự lặp lại và tăng tiến của những tình huống, sự đối lập giữa các nhân vật, sự xuất hiện của các yếu tố tưởng tượng, hoang đường. Truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng ca ngợi lòng biết ơn đối với những người nhân hậu và nêu ra bài học đích đáng cho những kẻ tham lam, bội bạc.
Cốt truyện đơn giản: Ngày xưa, có hai vợ chồng người đánh cá già sống rất nghèo khổ. Một hôm, ông lão kéo lưới bắt được một con cá vàng. Cá vàng van xin ông lão thả ra, ông lão muốn gì sẽ được nấy. Mụ vợ tham lam bắt ông lão phải thực hiện những điều mụ yêu cầu. Lòng tham vô tận, mụ muốn làm Long Vương để bắt cá vàng hầu hạ. Cá vàng tức giận, bắt mụ trở về cuộc sống nghèo khổ như xưa.
Truyện có ba nhân vật: ông lão đánh cá, mụ vợ và con cá vàng. Biển cả mênh mông là khung cảnh làm nền cho ba nhân vật hoạt động. Trong truyện, ông lão năm lần ra biển gọi cá vàng để nhờ cậy. Lần thứ nhất: biển gợn sóng êm ả. Lần thứ hai: biển xanh nổi sóng. Lần thứ ba: biển xanh nổi sóng dữ dội. Lần thứ tư: biển nổi sóng mù mịt. Lần thứ năm: một cơn dông kinh khủng kéo đến, mặt biển nổi sóng ầm ầm.
Năm lần gọi cá vàng là năm lần cảnh biển thay đổi. Một bên là những yêu cầu ngày càng quá quắt của mụ vợ ông lão, một bên là phản ứng của biển mỗi lúc một tăng, tương ứng với sự vô lí của những yếu cầu đó. Qua những lần lặp lại như thế, tính cách nhân vật (ông lão, mụ vợ, cá vàng) và chủ đề của truyện càng được tô đậm. Ở đây, biển không chỉ đơn thuần làm nền cho các nhân vật hoạt động mà còn tham gia tích cực vào diễn biến của truyện, tượng trưng cho phản ứng của nhân dân, của trời đất trước thói tham lam và bội bạc.
Đọc truyện này, ai cũng thương ông lão bởi vì ông là người tốt bụng, hiền lành mà không may gặp phải mụ vợ tai quái, độc ác. Ông lão luôn luôn bị vợ mắng chửi tàn tệ. Lần thứ nhất, khi ông lão thật thà kể chuyện về cá vàng, ông đã bị mụ mắng như mắng trẻ con: “Đồ ngốc!…”. Lần thứ hai, dù ông lão đã làm theo ý mụ, mụ vẫn quát to: “Đồ ngu!…”. Lần thứ ba, thấy ông lão từ biển về, mụ mắng như tát nước vào mặt …
Không chỉ bị vợ sỉ nhục, mắng mỏ, ông lão còn bị mụ khinh rẻ, ngược đãi. Lần thứ ba, tuy ông lão đã ra biển xin cá vàng cho mụ trở thành nhất phẩm phu nhân nhưng ông vẫn bị mụ quát tháo và bắt quét dọn chuồng ngựa. Lần thứ tư, ông lão lại năn nỉ xin cá vàng cho mụ được làm nữ hoàng, để rồi bị mụ tàn nhẫn ra lệnh đuổi đi …
Từ địa vị của một ông chồng, ông lão đã bị biến thành đầy tớ, bị vợ hắt hủi, xua đuổi không chút xót thương. Nguyên nhân chỉ vì ông sợ vợ một cách mù quáng. Người đọc thương ông lão hiền lành nhưng cũng giận ông lão quá nhu nhược, nhất nhất nghe theo lời vợ. Biết mụ được voi đòi tiên nhưng ông vẫn nhắm mắt làm theo lời mụ. Cảm thấy những đòi hỏi của mụ vợ là vô lí, nhận ra lòng tham đến mức quái gở của mụ, vậy mà ông lão không dám phản đối thì thật là đáng trách.
Chính vì nhu nhược mà ông lão bị mụ vợ đối xử thậm tệ. Lần thứ tư, rồi lần thứ năm, ông lão vẫn mù quáng làm theo lời mụ vợ, chỉ biết van xin cá vàng: – Giúp tôi với! Thương tôi với! Tôi sống làm sao được?! Ông lão không biết bảo vệ mình. Dân gian có câu: Một sự nhịn là chính sự lành nhưng nhịn nhục như ông lão là điều không nên.
Ông lão là một người hiền lành tử tế, đối lập với mụ vợ tai quái, độc ác. Vì vậy, người đọc thương xót, ái ngại cho tình cảnh của ông. Câu chuyện của ông lão đánh cá đã cho chúng ta một bài học về cách đối nhân xử thế: Sự nhẫn nhục chịu đựng bao giờ cũng có giới hạn. Mỗi người cần có bản lĩnh để bảo vệ nhân phẩm của mình, không nên nhân nhượng và làm theo những tham vọng ngông cuồng của kẻ khác.
Trong truyện, mụ vợ là nhân vật phản diện. Đây không phải là con người mang tính xấu mà là tính xấu hiện hình dưới lốt người. Có thể kể ra vô số tính xấu của nhân vật này: tham lam, bội bạc, dữ dằn, thô lỗ … Trong đó có hai thói xấu nổi bất nhất là tham lam và bội bạc. Có lẽ sự bội bạc còn đáng ghét và khó tha thứ hơn cả sự tham lam.
Mở đầu truyện là cảnh sống bình thường của hai vợ chồng nghèo: Ngày ngày, chồng đi thả lưới, vợ ở nhà kéo sợi. Thế rồi khi cá vàng xuất hiện có khả năng kì diệu thỏa mãn được mọi ước muốn của con người thì mọi sự thay đổi hẳn. Chúng ta hãy quan sát thái độ của mụ vợ đối với chồng. Khi đòi cá vàng đền ơn cho một cái máng lợn mới, được máng rồi thì mụ lại mắng chồng là: – Đồ ngốc! Đòi ngôi nhà lớn, được nhà rồi, mụ quát chồng to hơn: – Đồ ngu! Khi đã là nhất phẩm phu nhân, mụ mắng như tát nước vào mặt chồng: – Đồ ngốc, ngốc sao ngốc thế! Khi thành nữ hoàng, mụ nổi trận lôi đình, tát vào mặt ông lão: – Mày dám cãi … Đến khi đòi làm Long Vương không được, mụ nổi cơn thịnh nộ, sai lính đi bắt ông lão về để trị tội.
Những tình tiết ấy đã làm nổi rõ nghịch lí: lòng tham càng lớn thì tình nghĩa vợ chồng càng nhạt phai, rồi tiêu biến. Với mụ vợ, ông lão đánh cá không chỉ là chồng mà còn là ân nhân bởi vì nhờ ông mà mụ có tất cả. Nhưng ông lão càng giúp mụ vợ thỏa mãn lòng tham bao nhiêu thì mụ lại càng cư xử tệ bạc bấy nhiêu. Mụ không còn coi ông lão là chồng mà coi ông như một kẻ đầy tớ, chỉ được phép cúi đầu tuân lệnh.
Mụ không có công gì với cá vàng để có thể đòi hỏi cá vàng trả ơn. Cá vàng đã nể tình ông lão mà mang lại tiền bạc và quyền uy cho mụ. Nhưng lòng tham không đáy, mụ đòi hỏi tất cả mọi thứ mà con người có thể có. Chưa đủ, mụ còn muốn có trong tay quyền lực vô biên và cuối cùng, mụ muốn bắt cá vàng làm nô lệ để mụ tiện sai khiến. Khi đã làm nữ hoàng, mụ đuổi ông lão đi cho khuất mắt. Ân nhân đã trở thành chướng ngại. Sự bội bạc và tham lam của mụ đã tới mức tột cùng, người và trời đều không thể dung tha. Biển cả cũng nổi cơn giận dữ, trừng trị đích đáng mụ vợ tham lam, bội bạc và tàn nhẫn.
Có người cho rằng nếu đặt tên truyện là Mụ vợ ông lão đánh cá và con cá vàng thì cũng có lí bởi vì mụ cũng là nhân vật chính. Trong truyện cổ tích, nhân vật chính thường là nhân vật tích cực và về nguyên tắc thì lấy nhân vật chính để đặt tên truyện. Nhưng trong trường hợp này, nếu lấy nhân vật phản diện để đặt tên cho truyện thì ý nghĩa của truyện dường như cũng không thay đổi: nêu bài học cảnh cáo nghiêm khắc đối với những kẻ tham lam bội bạc như mụ vợ ông lão. Kết thúc truyện, tất cả mọi thứ đều trở lại như xưa (lều nát, máng sứt …). Ông lão không mất gì cả, nhưng rõ ràng vừa trải qua cơn ác mộng. Có lẽ từ nay, ông lão càng thấy quý hơn cảnh sống yên bình, thanh thản.
Đọc truyện, có người sẽ thắc mắc tại sao mụ vợ không bị trừng phạt nặng như mẹ con Lí Thông mà chỉ phải sống trong hoàn cảnh nghèo khó như trước? Nhưng nếu suy ngẫm kĩ thì ta thấy rằng tuy trở lại cảnh sống ban đầu nhưng thực ra không phải hoàn toàn như xưa nữa. Cá vàng không chỉ lấy đi những gì nó đã cho mà còn nhiều hơn thế.
Mở đầu truyện là cảnh mụ vợ sống trong nghèo khó. Chưa bao giờ mụ được sống sung sướng, giàu sang, lên xe xuống ngựa. Còn ở kết thúc truyện, sau khi mụ vợ đã được hưởng tột đỉnh giàu sang mà lại phải trở lại cảnh nghèo khó ban đầu thì điều đó quả thật chẳng dễ chịu chút nào. Mụ bị suy sụp cả về tinh thần lẫn thể xác; sẽ nhục nhã ê chề tới cực điểm. Đây chính là sự trừng phạt đích đáng đối với nhân vật tham lam, độc ác này.
Cá vàng trừng trị mụ vợ ông lão vì hai tội tham lam và bội bạc nhưng có lẽ tội bội bạc lớn hơn. Thực ra giữa hai tội này có sự liên quan chặt chẽ: lòng tham quá lớn thường làm cho người ta mất hết lương tri và tính người, không còn khả năng nhận biết đúng sai. Ở con người, lòng tham có ít hay nhiều, điều ấy không phải là chuyện lạ. Có lẽ tác giả muốn nhấn mạnh lòng tham là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nhiều tai vạ.
Hình tượng cá vàng có ý nghĩa tượng trưng cho sự biết ơn đối với những người đã giúp mình qua cơn hoạn nạn, khó khăn. Cá vàng còn đại diện cho công lí: những kẻ bội bạc, tham lam tất sẽ bị trừng trị đích đáng. Tuy là cổ tích nhưng ý nghĩa hiện thực của nó lại vô cùng sâu sắc, lớn lao. Điều đó đã làm say mê, xúc động bao nhiêu thế hệ người đọc từ trước đến nay.
Bài văn phân tích truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” số 7
Puskin là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch nổi tiếng người Nga. Được tôn vinh là đại thi hào, Mặt trời thi ca Nga ông đã có những đóng góp to lớn đối với nền văn học nước Nga. Puskin đã để lại một kho tàng tác phẩm đồ sộ, trong đó không thể không nhắc đến tác phẩm “Ông lão đánh cá và con cá vàng”. Câu chuyện khẳng định chân lý cái thiện luôn chiến thắng cái ác, “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”, những kẻ tham lam sẽ chịu những hình phạt thích đáng.
Câu chuyện kể về đôi vợ chồng nghèo, người chồng hằng ngày đi đánh bắt cá ngoài biển. Một hôm, ông bắt được một con cá vàng. Con cá xin ông tha mạng cho và hứa là sẽ cho những gì mà ông muốn. Nhưng mụ vợ của lão quá tham lam nên cuối cùng phải trở lại với cuộc sống nghèo khổ.
Trước khi bắt được con cá vàng thì ông lão sống một cuộc sống nghèo khổ, hằng ngày đi ra biển đánh cá, tuy vậy ông là một người lương thiện. Một hôm, ông bắt được một con cá vàng, con cá vàng mong được ông tha mạng, thả về đại dương và sẽ hoàn thành những điều mà ông muốn. Ta thấy, ông lão là một người nhân hậu, giàu tình thương, nghe vậy ông liền thả con cá trở về đại dương đồng nghĩa với việc ngày hôm đó ông không kiếm được gì mang về và ông cũng không đòi hỏi gì ở con cá. Sự độ lượng, bao dung của ông lão đối với sinh vật bé nhỏ khiến ta thấy trân trọng và ngợi ca. Ông mang chuyện đem về kể với vợ nhưng ông càng lương thiện, giàu tình thương thì mụ vợ nhà ông càng toan tính, mưu mô và trục lợi. Mụ vợ quát mắng ông, liên tục chửi mắng và sai khiến ông ra biển tìm cá vàng để thực hiện những ý muốn của mụ.
Ông lão không hề có sự quyết đoán mà chỉ lẳng lặng nghe lời vợ và ra biển nhờ cá giúp đỡ. Lúc đầu chỉ đơn giản là cái máng lợn vì cái máng lợn nhà ông lão đã bị nứt nẻ. Cá vàng liền đồng ý và khi trở về ông đã thấy một cái máng lợn mới. Rồi sau đó là những tham vọng của mụ vợ ngày càng tăng dần cũng đồng nghĩa với sự phụ thuộc, nhu nhược của ông lão ngày càng thể hiện rõ rệt. Mụ muốn một ngôi nhà đẹp, muốn làm nhất phẩm phu nhân, muốn làm nữ hoàng của vương quốc.
Những lần ông lão ra xin cá vàng để làm thỏa mãn những tham vọng của mụ vợ, hình ảnh những con sóng ngày càng dữ dội và đầy sóng gió thể hiện sự tham lam của mụ vợ ngày càng tăng cũng đồng thời là sự bất bình của cá vàng nhưng vẫn giúp ông lão đánh cá. Ông lão nhu nhược, chỉ biết đi cầu xin cá vàng mà không hề dám quyết đoán một lần, bị mụ vợ lên mặt chửi bới, sai bọn hầu đánh đuổi. Qua đó, ta thấy được sự nhu nhược của ông lão Cá vàng rất thương ông lão, dù không muốn giúp mụ vợ nhưng luôn khuyên ông lão trở về và “trời sẽ phù hộ cho ông”.
Nhưng đến lần thứ năm, mụ vợ muốn trở thành Long Vương ngự dưới Thiên Cung và bắt cá vàng về hầu hạ mụ. Lần này, cá vàng không nói không rằng mà lẳng lặng lặn xuống biển. Ông lão bất ngờ, không biết thế nào, chờ một lúc lâu thì trở về nhưng khi trở về ông vô cùng bất ngờ. Tòa lâu đài không còn, bọn hầu hạ cũng chẳng thấy đâu, thay vào đó là hình ảnh mụ vợ ngồi trước cái máng lợn sứt mẻ ngày nào với túp lều tranh xơ xác.
Câu chuyện là tiếng chuông cảnh tỉnh đối với những người tham lam, được voi đòi tiên, với lòng tham vô đáy thì sẽ phải chịu những hậu quả chính đáng và cái ác luôn bị đẩy lùi bởi cái thiện. Hình ảnh mụ vợ trở về cái máng lợn sứt mẻ và túp lều xơ xác là kết quả của những tham vọng không chính đáng. Đồng thời, câu chuyện cũng lên án, phê phán sự nhu nhược, phụ thuộc của ông lão. Chính bản chất hiền lành, độ lượng đã khiến ông trở thành một người chồng thiếu quyết đoán và kiên định. Hình ảnh cá vàng là đại diện cho những ước mơ của con người nhưng khi những ước mơ trở thành tham vọng thì nó sẽ không thành hiện thực khi ngoài khả năng thực hiện và lúc đó trở về con số không là điều hiển nhiên.
Câu chuyện cũng là lời khuyên cho mỗi chúng ta cần có những mong muốn chính đáng để không biến nó trở thành tham vọng, lòng tham vô đáy để cuối cùng trở về cái máng lợn…
Bài văn phân tích truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” số 3
Tác phẩm “Ông lão đánh cá và con cá vàng” là một tác phẩm điển hình của đại thi hào người Nga – Puskin. Qua tác phẩm, tác giả muốn gửi gắm 1 bàn chân lí, cái thiện bao giờ cũng được đền đáp xứng đáng, cái ác cái tham lam luôn luôn bị quả báo.
Tác phẩm viết về câu chuyện của hai vợ chồng sống nghèo khổ, ngày ngày ông lão ra biển đánh cá, còn mụ vợ thì suốt ngày đay nghiến ông lão, bắt ông lão phải làm cái này cái kia mà không hài lòng. Khi ông lão bắt được con cá vàng, con cá van xin ông thả đi thì con cá sẽ báo đáp ông. Nhưng ông chẳng muốn xin gì, ông về và kể lại câu chuyện cho mụ vợ. Thấy ông về nhà, mụ vợ đay nghiến, mắng mỏ ông là ngu ngốc, rồi bắt ông ra biển để xin con cá vàng cho một cái máng lợn mới.
Nhưng cái máng lợn mới vẫn không thỏa mãn lòng tham của mụ, mụ lại tiếp tục bắt ông lão ra bờ biển để xin ngôi nhà mới. Không dừng lại đó, mụ vợ lại được nước, bắt ông lão bắt con cá vàng cho mình làm trở thành nhất phẩm phu nhân. Nhưng mụ đâu có dừng lại đó, khi lòng tham vô đáy của mụ lên đến tột cùng, mụ đòi làm nữ hoàng và muốn có con cá vàng bên cạnh để hầu hạ cho ý muốn của mụ.
Ông lão trong câu chuyện vốn dĩ là một người nghèo khổ nhưng lương thiện. Ông không quản mưa gió bão tố, làm việc cần cù cần mẫn để kiếm sống, sống một cuộc sống lương thiện. Trước tiên ông lão là một người nghèo khổ nhưng rất lương thiện. Khi ông lão bắt được con cá vàng, lẽ ra ông lão sẽ mang nó về nhà, nhưng khi nghe nó van xin ông lại thương lòng, thả nó về với biển – về với nhà của nó. Ông sẵn sàng làm những việc mà có lẽ những người ở làng chài không bao giờ làm. Ông là một người bao dung, lương thiện.
Nhưng trái ngược hoàn toàn với ông, mụ vợ của ông lại vô cùng tham lam. Mụ hết lần này tới lần khác bắt ông lão làm theo ý mình, bắt con cá vàng phải làm theo ý của mụ. Xét cho cùng, lẽ ra ông lão là một người đàn ông, phải là một người bản lĩnh trong gia đình, nhưng ông có phần hơi nhu nhược, khi làm theo ý mụ vợ rất nhiều lần. Dù nhiều lần ông khuyên ngăn nhưng trước sự hung hãn của mụ vợ, ông lại không có đủ can đảm để chống lại hay ngăn cản lại ý muốn của mụ. Lẽ ra được phục vụ được chấp thuận thì mụ phải cảm thấy sung sướng, phải cảm thấy biết ơn, cả ông lão và con cá. Nhưng chính lòng tham không đáy của mụ mà khiến mất tất cả mọi thứ biến mất.
Con cá là một biểu tượng cho chân lí cái thiện sẽ luôn được đền đáp, sống lương thiện sẽ được báo đáp. Chân lí này giống như câu “ở hiền gặp lành” của dân tộc Việt Nam ta. Đồng thời con cá vàng chính là công cụ để nhân dân lương thiện thi hành sự trừng trị thích đáng đối với những kẻ tham lam bạc bẽo.
Câu chuyện kết thúc thật bất ngờ, khi trước mặt ông lão hiện ra với túp lều rách nát ngày xưa và trên bậc cửa, mụ vợ đang ngồi trên cái máng lợn sứt mẻ”. Mọi thứ lại trở lại như xưa cũ và cái kết cục này là tất yếu, và là một bài học xứng đáng cho những kẻ tham lam và không biết giới hạn của sự mong muốn của mình. Mọi thứ nếu tới một giới hạn nhất định, nếu đi qua giới hạn đó, có thể con người đánh đổi và mất tất cả.
Tác phẩm kết thúc thật bất ngờ, qua tác phẩm tác giả muốn tỏ lòng biết ơn đối với những người nhân hậu và sống lương thiện nhưng cũng đưa ra những bài học đích đáng cho những kẻ tham lam, không làm gì mà thích sai khiến người khác và đạt được nguyện vọng của mình.
Có thể bạn thích: